Tình hình thế giới tiếp tục biến động phức tạp, nhanh và khó lường với nhiều rủi ro, bất ổn. Cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn diễn ra ngày càng gay gắt, căng thẳng địa chính trị, xung đột quân sự leo thang ở một số quốc gia tác động đến hòa bình, ổn định trên thế giới, làm suy giảm hệ thống thương mại, đầu tư, sản xuất và tiêu dùng. Cùng với đó, thiên tai, thời tiết cực đoan ảnh hưởng nghiêm trọng đến cuộc sống của dân cư và phát triển kinh tế - xã hội của các quốc gia. Tuy nhiên, sau nhiều biến động, kinh tế thế giới đang dần ổn định khi thương mại hàng hóa toàn cầu được cải thiện trở lại, áp lực lạm phát giảm dần, điều kiện tài chính đang tiếp tục được nới lỏng, nguồn cung lao động gia tăng. Kinh tế thế giới có xu hướng phục hồi nhưng chậm. Tại thời điểm cuối năm hầu hết các tổ chức quốc tế đều dự báo tăng trưởng kinh tế toàn cầu giữ nguyên hoăc tăng từ 0,1 đến 0,3 điểm phần trăm so với các dự báo trước đó, đạt từ 2,7% đến 3,2%, tương đương tăng trưởng năm 2023.
Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) , Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) và Liên minh châu Âu (EU) đều dự báo tăng trưởng GDP toàn cầu năm 2024 đạt 3,2%, giữ nguyên so với dự báo đưa ra trước đó; Fitch Ratings (FR) dự báo tăng trưởng kinh tế toàn cầu năm 2024 đạt 2,8%, cao hơn 0,1 điểm phần trăm so với dự báo trong tháng 9/2024; Liên hợp quốc (UN) nhận định nền kinh tế thế giới đạt mức tăng trưởng 2,7% trong năm 2024, tăng 0,3 điểm phần trăm so với dự báo tháng 01/2024.
Trong nước, năm 2024 là năm tăng tốc, bứt phá có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc thực hiện thắng lợi Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021-2025. Với quyết tâm khắc phục mọi khó khăn, đặc biệt là khắc phục hậu quả của cơn Bão số 3 gây thiệt hại nghiêm trọng, nặng nề về người, tài sản, cây trồng, vật nuôi, các hạ tầng kinh tế - xã hội làm ảnh hưởng rất lớn đến đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân và hoạt động sản xuất kinh doanh. Vượt qua mọi thách thức để phát triển kinh tế - xã hội Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo Bộ, ngành, địa phương quyết liệt triển khai các nhiệm vụ, giải pháp của Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 05/01/2024 của Chính phủ, tiếp tục thực hiện đồng bộ các giải pháp của Chương trình phát triển kinh tế - xã hội, tạo động lực đột phá để phát triển kinh tế theo mục tiêu đã đề ra. Kinh tế - xã hội năm 2024 của nước ta đã đạt được nhiều kết quả tích cực ở hầu hết các ngành, lĩnh vực.
Trên địa bàn tỉnh Điện Biên thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2024 trong bối cảnh có cả những khó khăn, thách thức và thuận lợi đan xen. Từ đầu năm đã tổ chức nhiều sự kiện như: Tổ chức khai mạc Năm Du lịch Quốc gia - Điện Biên 2024, Lễ hội Hoa Ban năm 2024, đặc biệt là Lễ Kỷ niệm 70 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ, … là những điều kiện rất thuận lợi để đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, thu hút đầu tư và phát triển dịch vụ du lịch. Bên cạnh đó, cũng có nhiều các yếu tố gây bất lợi như: Nguồn lực đầu tư còn hạn chế, chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển; mưa lũ, sạt lở nghiêm trọng trong quý III gây ảnh hưởng không nhỏ đến tình hình sản xuất kinh doanh cũng như đời sống của Nhân dân trong tỉnh. Trước tình hình đó, Tỉnh ủy, Hội đồng Nhân dân, Ủy ban Nhân dân tỉnh thực hiện nghiêm túc, linh hoạt Nghị quyết số 01/NQ-CP của Chính phủ về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và Dự toán ngân sách Nhà nước năm 2024 vào tình hình thực tế tại địa phương, đồng thời chỉ đạo quyết liệt các ngành, địa phương tập trung thực hiện ngay từ những ngày đầu, tháng đầu của năm 2024 nhằm hoàn thành các mục tiêu, chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội năm 2024. Kết quả đạt được của các ngành, lĩnh vực năm 2024 trên địa bàn tỉnh Điện Biên như sau:
I. PHÁT TRIỂN KINH TẾ
1. Tăng trưởng kinh tế
Tổng sản phẩm trong tỉnh (GRDP) quý IV/2024 ước tính tăng 2,37% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 4,64%; khu vực công nghiệp và xây dựng giảm 14,33%; khu vực dịch vụ tăng 11,32%; Thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm tăng 4,29%.
Tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh Điện Biên (GRDP) ước năm 2024 theo giá so sánh năm 2010 đạt 16.263,22 tỷ đồng, tăng 8,51% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Khu vực nông, lâm nghiệp thủy sản đạt 2.549,6 tỷ đồng, tăng 4,06%; khu vực công nghiệp - xây dựng đạt 3.489,77 tỷ đồng, tăng 0,66% (công nghiệp tăng 22,43%); khu vực dịch vụ đạt 9.529,97 tỷ đồng, tăng 13,08%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm 693,89 tỷ đồng, tăng 8%.
Tốc độ tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh Điện Biên theo giá so sánh 2010 tăng 8,51% so với cùng kỳ năm trước (quý I tăng 6,86%; quý II tăng 15%; quý III tăng 11,1%; quý IV tăng 2,37%), tốc độ tăng trưởng kinh tế của tỉnh trong năm đạt khá so với các tỉnh cùng khu vực (đứng thứ 6/14 tỉnh; 18/63 cả nước). Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng đạt được vẫn thấp hơn 1,99 điểm % so với kịch bản tăng trưởng (KBTT) năm 2024 đề ra tại Quyết định số 22/QĐ-UBND ngày 08/01/2024 của UBND tỉnh Điện Biên.
Trong 8,51% tăng trưởng của năm 2024 đa phần các ngành, các lĩnh vực duy trì được mức tăng trưởng khá và đều đóng góp tích cực vào tốc độ tăng trưởng chung của nền kinh tế địa phương, cụ thể: Nhóm ngành nông lâm nghiệp và thủy sản đóng góp 0,66 điểm %; nhóm ngành công nghiệp và xây dựng đóng góp 0,15 điểm % (trong đó: công nghiệp tăng 1,52 điểm %; xây dựng giảm 1,36 điểm % ); nhóm dịch vụ đóng góp 7,35 điểm % (là nhóm có tỷ trọng cao nhất trong mức tăng trưởng); thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm đóng góp 0,34 điểm %.
Tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh Điện Biên theo giá hiện hành đạt 31.663,39 tỷ đồng, tăng 12,78% so với cùng kỳ năm trước đạt 98,33% kế hoạch. Trong đó: Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản đạt 4.829,4 tỷ đồng, tăng 8,94%, đạt 98,73%; khu vực công nghiệp - xây dựng đạt 6.550,27 tỷ đồng, tăng 8,94%, đạt 90,08%; khu vực dịch vụ đạt 18.933,62 tỷ đồng, tăng 14,8%, đạt 101,2%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm đạt 1.350,11 tỷ đồng, tăng 12,21%, đạt 101,73%.
Về cơ cấu nền kinh tế năm 2024: Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỷ trọng 15,25%, giảm 0,3% so với cùng kỳ năm trước; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 20,69%, giảm 0,73% so với cùng kỳ năm trước; khu vực dịch vụ chiếm 59,8%, tăng 1,06% so với cùng kỳ năm trước; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 4,26%, giảm 0,03% so với cùng kỳ năm trước. Tổng sản phẩm bình quân đầu người ước năm 2024 đạt 48,22 triệu/người/năm, (tăng 4,77 triệu/người/năm so với năm 2022).
2. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản
Sản xuất nông nghiệp năm 2024 tăng trưởng tích cực, do dịch bệnh trên cây trồng giảm, sản phẩm sản xuất ra bán được giá, thị trường tiêu thụ ổn định; công tác chỉ đạo sản xuất của các cấp chính quyền được nhân dân đồng tình ủng hộ, các chính sách hỗ trợ người dân trong sản xuất được thực hiện hiệu quả... chăn nuôi phát triển ổn định, dịch bệnh trên đàn gia súc, gia cầm được hạn chế; sản xuất lâm nghiệp tập trung chăm sóc và bảo vệ rừng, phòng chống cháy rừng, đồng thời triển khai các chương trình, dự án trồng rừng; nuôi trồng và khai thác thủy sản được duy trì.
2.1. Nông nghiệp
a) Trồng trọt
* Tháng 12 năm 2024:
Gieo trồng cây vụ Đông 2025: Đến thời điểm 20/12/2024, toàn tỉnh đã gieo trồng được 1.473,42 ha, tăng 0,67%. Cụ thể: Bà con tận dụng đất gieo trồng lúa nghỉ chờ giữa 2 vụ để trồng ngô với diện tích 302,71 ha ; tại huyện Điện Biên duy trì trồng 140,13 ha khoai lang; diện tích cây có hạt chứa dầu được trồng chủ yếu tại huyện Nậm Pồ với 6,0 ha đậu tương và 40,40 ha lạc; diện tích rau và đậu các loại được trồng tại các địa phương trong tỉnh phục vụ nhu cầu tiêu thụ của người dân trên địa bàn.
Đến thời điểm báo cáo các địa phương đang làm đất chuẩn bị cho gieo trồng lúa vụ Đông xuân 2025.
* Sơ bộ năm 2024:
Cây hàng năm: Diện tích gieo trồng cây hằng năm năm 2024 tăng so với cùng kỳ năm trước; sản phẩm sản xuất ra bán được giá, thị trường tiêu thụ ổn định; công tác chỉ đạo sản xuất, các chính sách hỗ trợ người dân trong sản xuất thực hiện có hiệu quả.
Toàn tỉnh đã gieo trồng được 106.360,13 ha, tăng 3,63% so với năm 2023. Sản xuất lương thực tiếp tục được quan tâm phát triển và có cải thiện cả về cơ cấu sản phẩm và chất lượng sản xuất. Tổng sản lượng lương thực năm 2024 ước đạt 286.976,29 tấn, tăng 0,51% so với năm trước và vượt 1,43% kế hoạch, trong đó:
- Cây lúa: Tổng diện tích gieo trồng cả năm đạt 54.614,82 ha, giảm 1,8% so cùng kỳ năm trước, đạt 99,43% kế hoạch ; năng suất 38,32 tạ/ha; sản lượng lúa thu được 209.278,88 tấn, giảm 1,04%, vượt 0,65% kế hoạch.
- Cây ngô: Tổng diện tích gieo trồng được 24.870,08 ha, tăng 1,83%, vượt 2,72% kế hoạch; năng suất đạt 31,24 tạ/ha; sản lượng đạt 77.697,41 tấn, tăng 4,95%, vượt 5% kế hoạch. Nguyên nhân tăng do diện tích tăng chủ yếu ở huyện Mường Nhé (110,99 ha) và Tuần Giáo (453,92 ha) do người dân khai hoang trên nền đất nương, đồi; bà con các địa phương đã đưa giống ngô lai mới có năng suất, chất lượng cao vào gieo trồng đã làm tăng sản lượng thu hoạch trong năm.
- Cây lấy củ có chất bột: Tổng diện tích gieo trồng được 18.506,55 ha, tăng 30,88%, trong đó: Sắn diện tích đạt 16.833,89 ha, tăng 32,47%, sản lượng đạt 157.370,08 tấn, tăng 27,42% ; dong giềng diện tích đạt 795 ha, tăng 4,14%, sản lượng đạt 7.537,64 tấn, tăng 8,89%; khoai sọ diện tích đạt 312,65 ha, tăng 17,18%, sản lượng đạt 2.810,1 tấn, tăng hơn 22,67% .
- Cây có hạt chứa dầu: Diện tích gieo trồng đạt 1.561,46 ha, giảm 9,02%, trong đó: Đậu tương diện tích đạt 514,95 ha, giảm 9,49%; năng suất đạt 12,11 tạ/ha, giảm 0,32%; sản lượng đạt 623,36 tấn, giảm 9,78%. Lạc diện tích đạt 1.046,51 ha, giảm 8,78%; năng suất đạt 13,88 tạ/ha, tăng 3,03%; sản lượng đạt 1.452,98 tấn, giảm 6,02% .
- Cây rau các loại: Diện tích gieo trồng đạt 5.112,30 ha, tăng 3,53%, sản lượng 95.145,04 tấn, tăng 3,06%. Diện tích rau các loại tăng chủ yếu ở các huyện Mường Chà (37,81 ha), Nậm Pồ (65,10 ha) thuộc mô hình chuỗi liên kết hỗ trợ giống và phân bón cho bà con.
Cây lâu năm: Tình hình sản xuất cây lâu năm trên địa bàn tỉnh năm 2024 đạt được những kết quả tích cực, góp phần làm tăng giá trị sản xuất cho ngành nông nghiệp; thực hiện triển khai trồng mới một số loại cây lâu năm trọng điểm của tỉnh như Mắc ca, Cà phê; chuyển đổi mục đích, cơ cấu cây trồng phù hợp mang lại giá trị kinh tế cao cho người dân.
Tổng diện tích hiện có là 26.575,96 ha, tăng 31,45% so với cùng kỳ năm trước (trong đó: Nhóm cây ăn quả đạt 14.747,52 ha, chiếm 55,49% tổng diện tích cây lâu năm, tăng 33,41%; nhóm cây công nghiệp đạt 10.209,19 ha, tăng 21,47%.
Diện tích hiện có, sản lượng thu hoạch một số loại cây ăn quả chủ yếu: Mắc ca 10.682,44 ha, tăng 46,21% sản lượng thu hoạch 1.420,01 tấn, tăng 99,35%; xoài 698,4 ha, sản lượng đạt 1.651,46 tấn, giảm 2,88%; dứa 583,64 ha, tăng 16,34%, sản lượng thu được 6.189,93 tấn, giảm 0,26%; nhãn 423,26 ha, sản lượng thu hoạch 876,43 tấn, giảm 54,83% ; thanh long 31,31 ha, tăng 8,68%, lượng thu hoạch 292,64 tấn, tăng 32,95%; na 42,35 ha, tăng 18,63 ha, sản lượng thu hoạch 239,86 tấn, tăng 6,78%; chanh leo 63,68 ha, tăng 484,22%, sản lượng thu hoạch 183,77 tấn, tăng 187,37%.
Diện tích hiện có, sản lượng một số cây công nghiệp lâu năm: Cao su 5.022,03 ha, tăng 0,12%; sản lượng đạt 5.628,47 tấn, tăng 6,06%; cà phê 4.540,75 ha, tăng 64,61% , sản lượng thu hoạch 4.829 tấn, tăng 9,91% ; chè búp 628,99 ha, tăng 2,63%; sản lượng thu hoạch đạt 198,3 tấn, tăng 0,11%.
Trong nhóm cây dược liệu lâu năm diện tích sa nhân 1.566,53 ha, tăng 119,58% ; sản lượng đạt 90,16 tấn, tăng 74,26%.
b) Chăn nuôi
Tình hình chăn nuôi gia súc, gia cầm trên địa bàn tỉnh năm 2024 tiếp tục phát triển ổn định. Đàn trâu, đàn bò vẫn luôn được trú trọng, các chính sách ưu tiên hỗ trợ về giống và đầu tư chuồng trại được quan tâm giúp các hộ chăn nuôi phát triển sản xuất.
Sản lượng thịt hơi xuất chuồng gia súc gia cầm ước năm 2024 tăng do: Trong năm, trên địa bàn tỉnh diễn ra nhiều sự kiện, hoạt động văn hoá lớn, thu hút nhiều khách du lịch trong và ngoài nước đến với Điện Biên, vì vậy nhu cầu tiêu thụ các loại thịt để phục vụ nhà hàng, quán ăn, làm các đặc sản Tây bắc tăng mạnh.
Tình hình thiệt hại do dịch bệnh trong năm :
Diễn biến dịch bệnh trên đàn vật nuôi năm 2024 cơ bản được kiểm soát tốt, tuy nhiên xảy ra một số dịch bệnh nhỏ lẻ, gây thiệt hại về gia súc do các bệnh Tụ huyết trùng, dịch tả cổ điển, dịch tả lợn Châu Phi, Lở mồm long móng... Để hạn chế tối đa dịch bệnh bùng phát và lây lan, công tác tiêm phòng vắc xin tiếp tục được triển khai thực hiện, trong năm triển khai tiêm phòng 1.740.921 liều vắc xin; kiểm dịch động vật được 16.473 con gia súc; 15.394 kg thịt trâu, bò xuất hà Nội. Kiểm soát giết mổ được 54.985 con trâu, bò, lợn.
2.2. Lâm nghiệp
Diện tích rừng trồng mới tập trung trong quý IV/2024 ước đạt 1.331,7 ha, giảm 5,03% so với cùng kỳ năm trước; sản lượng gỗ khai thác đạt 3.413,8 m3, tăng 4,27%; sản lượng củi khai thác đạt 203.244 ster, tăng 2,98%; Tính chung năm 2024, diện tích rừng trồng mới tập trung ước đạt 1.453,7 ha, giảm 9,35% cùng kỳ năm trước, đạt 322,33% so với kế hoạch (trong đó: rừng sản xuất 1.112,04 ha, giảm 24,13%; rừng phòng hộ 341,66 ha, tăng 147,63%); số cây lâm nghiệp trồng phân tán đạt 499,37 nghìn cây, tăng 46,06% ; sản lượng gỗ khai thác đạt 12.092,8 m3, giảm 1,29%; sản lượng củi khai thác đạt 785.839 ster, tăng 0,04%.
Diện tích rừng bị thiệt hại quý IV/2024 là 8,13 ha, tăng 75,94% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung năm 2024, toàn tỉnh có 117,34 ha rừng bị thiệt hại, tăng 18,18% so với cùng kỳ năm trước, trong đó diện tích rừng bị chặt, phá là 95,52 ha, giảm 0,86%; diện tích rừng bị cháy là 21,82 ha, tăng 6,41 lần.
Năm 2024 toàn tỉnh xảy ra 301 vụ phá rừng, 23 vụ cháy rừng, 15 vụ khai thác rừng trái pháp luật, 5 vụ vi phạm về các quy định bảo vệ động vật rừng, 19 vụ vận chuyển lâm sản trái pháp luật, 19 vụ tàng trữ, mua bán, xuất khẩu, nhập khẩu, chế biến lâm sản trái pháp luật, 3 vụ vi phạm về quản lý hồ sơ lâm sản, vi phạm quy định về chi trả dịch vụ môi trường rừng và các quy định chung của Nhà nước về bảo vệ rừng. Cơ quan chức năng thu giữ 138,4 m3 gỗ các loại, tổng số tiền thu nộp trong năm là 1.837,77 triệu đồng.
2.3. Thủy sản
Nuôi trồng và khai thác thuỷ sản trên địa bàn tỉnh được duy trì, dự ước toàn tỉnh có 2.747,92 ha ao, hồ nuôi trồng thủy sản, giảm 0,45% so với cùng kỳ năm trước. Tiếp tục duy trì mô hình nuôi cá lồng bè với 332 lồng, tổng thể tích 45.940 m3, chủ yếu nuôi cá rô phi, cá trắm, cá trê, cá lăng và cá tầm.
Sản lượng thủy sản tháng 12/2024 ước đạt 447,5 tấn, tăng 6,62% so với cùng kỳ năm trước. Sản lượng thủy sản quý IV/2024 ước đạt 1.314,92 tấn, tăng 4,74% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm: Cá đạt 1.285,57 tấn, tăng 4,72%; tôm đạt 11,24 tấn, tăng 4,85%; thủy sản khác đạt 18,11 tấn, tăng 5,84%. Tính chung năm 2024, sản lượng thủy sản ước đạt 4.979,76 tấn, tăng 4,16% so với cùng kỳ năm trước, vượt 12,29% kế hoạch tỉnh giao, bao gồm: Cá đạt 4.845,09 tấn, tăng 4,21%; tôm đạt 43,08 tấn, tăng 3,58%; thủy sản khác đạt 91,59 tấn, tăng 1,91%.
Sản lượng thủy sản nuôi trồng trong tháng ước đạt 422,89 tấn, tăng 6,58% so với thực hiện cùng kỳ năm trước, trong đó: Cá đạt 419,42 tấn, tăng 6,63%; tôm đạt 1,32 tấn, tăng 0,76%. Sản lượng thủy sản nuôi trồng quý IV/2024 ước đạt 1.240,32 tấn, tăng 4,66% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Cá đạt 1.229,65 tấn, tăng 4,67%; tôm đạt 4,63 tấn, tăng 2,89%. Tính chung năm 2024, sản lượng thủy sản nuôi trồng ước đạt 4.688,69 tấn, tăng 4,25% so với cùng kỳ năm trước, vượt 12,75% kế hoạch, trong đó: Cá đạt 4.638,47 tấn, tăng 4,29%; tôm đạt 15,34 tấn, tăng 2,33%.
Sản lượng thuỷ sản khai thác trong tháng ước đạt 24,61 tấn, tăng 7,33% so với thực hiện cùng kỳ năm trước, trong đó: Cá đạt 18,31 tấn, tăng 7,71%; tôm đạt 2,3 tấn, tăng 5,02%. Sản lượng thủy khai thác quý IV/2024 ước đạt 74,6 tấn, tăng 6,15% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Cá đạt 55,92 tấn, tăng 5,91%; tôm đạt 6,61 tấn, tăng 6,27%. Tính chung năm 2024, sản lượng thủy sản khai thác ước đạt 291,07 tấn, tăng 2,64% so với cùng kỳ năm trước, vượt 5,23% kế hoạch, trong đó: Cá đạt 206,62 tấn, tăng 2,44%; tôm đạt 27,74 tấn, tăng 4,29%.
3. Sản xuất công nghiệp
Sản xuất công nghiệp quý IV/2024 tăng trưởng tích cực, tốc độ tăng giá trị tăng thêm ước đạt 26,38% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung cả năm 2024, giá trị tăng thêm ngành công nghiệp tăng 22,43% so với năm trước, trong đó: ngành sản xuất và phân phối điện tăng 46,96% trước ; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 6,43%.
Giá trị tăng thêm toàn ngành công nghiệp năm 2024 ước tăng 22,43% so với năm trước. Trong đó, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 6,43%, đóng góp 0,21 điểm phần trăm vào mức tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 46,96%, đóng góp 1,33 điểm phần trăm; riêng ngành khai khoáng giảm 5,31%, làm giảm 0,02 điểm phần trăm.
Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp (IIP) tháng 12 năm 2024 ước giảm 0,15% so với tháng trước và tăng 9,74% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: ngành khai khoáng tăng 14,26% và tăng 25,6% ; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo chế tạo tăng 10,63% và tăng 3,14% ; ngành sản xuất và phân phối điện giảm 27,4% và tăng 32,01% ; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải tăng 5,34% và tăng 6,72%.
Quý IV năm 2024, chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp ước tính giảm 33,39% so quý trước và tăng 15,41% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Công nghiệp khai khoáng tăng 65,83% và tăng 14,15%; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 30,88% và tăng 3,9%; sản xuất và phân phối điện, khí đốt giảm 67,2% và tăng 46,41%; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 9,08% và tăng 4,08%.
Ước tính năm 2024, chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp ước tính tăng 20,26% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2023 giảm 1,77%). Trong đó, ngành khai khoáng giảm 0,94% ; ngành chế biến, chế tạo tăng 5,67%; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 49,49%, do trong năm có thêm 2 thủy điện Đề Bâu và Mường Luân 2 phát điện, mùa mưa năm nay lượng mưa lớn kéo dài, lưu lượng nước tăng cao, những tháng cao điểm mùa mưa các thủy điện hoạt động hết công suất các tổ máy; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 1,53%.
Chỉ số sản xuất năm 2024 của một số ngành công nghiệp cấp II tăng cao so với cùng kỳ năm trước: Khai thác than cứng và than non tăng 116,83%; sửa chữa, bảo dưỡng và lắp đặt máy móc và thiết bị tăng 53,78; sản xuất điện tăng 32,01%; hoạt động dịch vụ hỗ trợ khai thác mỏ và quặng tăng 22,48%; sản xuất hóa chất và sản phẩm hóa chất tăng 20,02%; dệt tăng 12%. Ở chiều ngược lại, chỉ số sản xuất công nghiệp của một số ngành giảm so với cùng kỳ: Sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác giảm 4,88%; sản xuất trang phục giảm 2,27%; công nghiệp chế biến chế tạo khác giảm 0,45%.
Một số sản phẩm công nghiệp năm 2024 tăng cao và khá so với cùng kỳ năm trước: Điện sản xuất tăng 52,72%; báo in (quy khổ 13cm x 19cm) tăng 12,07%; Thiết bị dùng cho dàn giáo, ván khuôn, vật chống hoặc cột trụ chống hầm lò bằng sắt, thép, nhôm tăng 4,75%; điện thương phẩm tăng 4,50%. Ở chiều ngược lại, một số sản phẩm giảm sâu với cùng kỳ năm trước: Than đá (than cứng) loại khác giảm 34,28%; sản phẩm in khác (quy khổ 13cm x 19cm) giảm 22,55%; xi măng Portland đen giảm 8,26%; giường bằng gỗ các loại giảm 7,33%.
Nhìn chung chỉ số IIP trong vòng 5 năm qua tăng, giảm không đồng đều giữa các ngành cấp I trong đó ngành sản xuất và phân phối điện tăng, giảm đột biến. Nguyên nhân, chịu tác động khách quan từ thời tiết và sự biến đổi của khí hậu gây ảnh hưởng đến chỉ số chung của toàn ngành.
Chỉ số tồn kho toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ước tính tháng 12 năm 2024, tăng 42,86% so với cùng thời điểm tháng trước và tăng 162,55% so với cùng thời điểm năm trước (cùng thời điểm năm trước tăng 23,22 lần). Sản lượng tồn kho lớn do khó khăn trong việc tìm kiếm đối tác tiêu thụ sản phẩm, phần lớn các sản phẩm ngành công nghiệp chế biến chế tạo sản xuất ra tiêu thụ trong nội bộ tỉnh nên chưa mang lại giá trị kinh tế cao, doanh nghiệp thiếu vốn luân chuyển sản xuất kinh doanh.
Chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tháng 12 năm 2024 tăng 12,58% so với tháng trước và giảm 12,74% so với cùng kỳ năm trước. Cộng dồn 12 tháng giảm 7,81%, %, trong đó ngành in ấn giảm 6,37%, sản xuất xi măng giảm 8,36% đây là sản phẩm chiếm tỷ trọng lớn và ảnh hưởng trực tiếp đến chỉ số tiêu thụ chung của toàn ngành chế biến.
Chỉ số sử dụng lao động của doanh nghiệp hoạt động ngành công nghiệp giảm 0,91% chủ yếu là các doanh nghiệp tại mỏ than và mỏ quặng nghỉ.
Số lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp công nghiệp tại thời điểm 01/12/2024 tăng 0,16% so với tháng trước, trong đó: Lao động khu vực doanh nghiệp Nhà nước giảm 0,13%; doanh nghiệp ngoài Nhà nước tăng 0,34%. So với tháng cùng kỳ năm trước tăng 0,32%, trong đó: Lao động khu vực doanh nghiệp Nhà nước tăng 1,72%; doanh nghiệp ngoài Nhà nước giảm 0,64%. Ước tính năm 2024 số lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp công nghiệp giảm 0,91% (khu vực doanh nghiệp Nhà nước tăng 0,19%, khu vực doanh nghiệp ngoài Nhà nước giảm 1,66%).
4. Xây dựng
Kết quả hoạt động xây dựng trên địa bàn tỉnh Điện Biên năm 2024 tập trung chủ yếu ở các công trình trọng điểm, nhà ở trong dân, công trình bệnh viện, trường học và trụ sở làm việc của các cơ quan hành chính nhà nước, công trình đường giao thông, thủy lợi…
Tuy giá trị tăng thêm ngành xây dựng năm 2024 theo giá so sánh 2010 đạt 2.250,01 tỷ đồng là mức khá cao, nhưng so với cùng kỳ năm trước giảm 8,32%, nguyên nhân là do lĩnh vực xây dựng trong năm 2023 có mức tăng trưởng khá cao (có nhiều chương trình, dự án trọng điểm, đặc biệt là dự án Nâng cấp mở rộng Cảng hàng không Điện Biên).
Giá trị sản xuất xây dựng theo giá hiện hành quý IV năm 2024 ước đạt 3.705,02 tỷ đồng, tăng 34,87% so với quý trước và giảm 30,15% so với cùng kỳ năm trước. Năm 2024 ước đạt 11.318,87 tỷ đồng, giảm 8,97% so với cùng kỳ năm trước.
Chia theo loại hình sở hữu: Doanh nghiệp nhà ước ước đạt 0,596 tỷ đồng, bằng 0,19% so cùng kỳ năm trước; doanh nghiệp ngoài Nhà nước đạt 6.117,21 tỷ đồng (chiếm 54,04%), tăng 8,86%; các loại hình khác bao gồm xây dựng của các xã, phường, thị trấn; hoạt động của các đội xây dựng cá thể và xây dựng tự làm, tự ở của các hộ gia đình đạt 5.201,07 tỷ đồng (chiếm 46,95%), giảm 3,73%.
Chia theo loại công trình: Công trình nhà ở đạt 5.148,43 tỷ đồng (chiếm 45,49%), tăng 2,27%. Công trình nhà không để ở đạt 1.378,85 tỷ đồng (chiếm 12,18%), giảm 5,91%. Công trình kỹ thuật dân dụng đạt 4.513,3 tỷ đồng (chiếm 39,87%), giảm 19,45%. Hoạt động xây dựng chuyên dụng đạt 278,29 tỷ đồng (chiếm 2,94%), giảm 2,46%.
5. Tình hình hoạt động của doanh nghiệp
a) Tình hình đăng ký doanh nghiệp
Dự ước năm 2024 toàn tỉnh có 150 doanh nghiệp thành lập mới với số vốn đăng ký 876,27 tỷ đồng, giảm 12,34% so với năm trước, vượt 36,36% kế hoạch, tăng 15 doanh nghiệp so với năm 2023. Có 55 doanh nghiệp quay trở lại hoạt động tăng gấp 3 lần cùng kỳ, giải thể 16 doanh nghiệp giảm 25,08%. Dự ước số doanh nghiệp đăng ký mới thực tế đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh năm 2024 là 56 doanh nghiệp, chiếm 37,33% số doanh nghiệp thành lập mới và sử dụng khoảng 410 lao động chủ yếu ở lĩnh vực xây dựng, thương mại, dịch vụ vận tải và tư vấn xây dựng.
Kinh tế tập thể và hộ kinh doanh tiếp tục được khuyến khích phát triển. Dự ước trong năm 2024 thành lập mới 26 hợp tác xã với tổng vốn điều lệ 65,8 tỷ đồng. Toàn tỉnh hiện có 335 HTX với 10.001 thành viên, tổng số vốn điều lệ là 979,19 tỷ đồng.
b) Xu hướng kinh doanh của doanh nghiệp
Quý 4 là thời tiết mùa khô thuận lợi để phát triển các ngành sản xuất công nghiệp ngoài trời, các công trình dự án lớn tập trung hoàn thành kế hoạch nên nhu cầu sử dụng các sản phẩm như xi măng, đồ gỗ xây dựng, các sản phẩm kim loại đúc sẵn tăng nên các doanh nghiệp sản xuất hoạt động các lĩnh vực trên có nhiều hợp đồng mới. Các doanh nghiệp được chọn mẫu dự báo đều có cái nhìn khách quan và hoạt động ổn định, phấn đấu đạt kết quả quý sau cao hơn quý trước nên cả quý IV/2024 và quý I/2025 có 86,67% doanh nghiệp nhận định tốt hơn so với quý trước, có 13,33% nhận định giữ nguyên; không có doanh nghiệp nhận định khó khăn hơn, chỉ số cân bằng so với quý trước 86,67%.
6. Thương mại, dịch vụ, vận tải
a) Bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng
Hoạt động thương mại và dịch vụ tiêu dùng tháng cuối năm diễn ra sôi động góp phần hoàn thành kế hoạch sản xuất kinh doanh năm 2024. Khu vực dịch vụ đạt tốc độ tăng trưởng khá tích cực so với năm trước. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng quý IV/2024 tăng 24,38% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung năm 2024, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tăng 24,77% so với năm trước.
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng 12 năm 2024 ước đạt 2.311,96 tỷ đồng, tăng 1,42% so với tháng trước, tăng 25,16% so với cùng kỳ năm trước. Trong quý IV năm 2024, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng ước đạt 6.855,17 tỷ đồng, giảm 0,22% so với quý trước và tăng 24,38% so với cùng kỳ năm trước. Ước năm 2024 tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng ước đạt 26.453,6 tỷ đồng, tăng 24,77% so với cùng kỳ năm trước.
* Bán lẻ hàng hoá
Xét theo ngành hoạt động trong tổng mức bán lẻ hàng hóa tháng 12, quý IV và ước năm 2024 như sau:
* Dịch vụ lưu trú và ăn uống
Doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống tháng 12 năm 2024 ước đạt 115,74 tỷ đồng, tăng 0,55% so với tháng trước và tăng 55,4% so với cùng kỳ năm trước. Trong quý IV năm 2024 ước đạt 356,8 tỷ đồng, giảm 23,7% so với quý trước và tăng 60,25% so với cùng kỳ năm trước. Ước tính năm 2024 đạt 1.612,82 tỷ đồng, tăng 87,57% so cùng kỳ năm trước, bao gồm: Dịch vụ lưu trú đạt 195,54 tỷ đồng, tăng 108,66%; dịch vụ ăn uống đạt 1.417,27 tỷ đồng, tăng 84,99%.
* Dịch vụ khác
Doanh thu một số ngành dịch vụ khác tháng 12 năm 2024 ước đạt 277,3 tỷ đồng, tăng 0,44% so với tháng trước, tăng 6,43% so với cùng kỳ năm trước. Trong quý IV năm 2024 ước đạt 827,88 tỷ đồng, tăng 1,08% so với quý trước và tăng 8,06% so với cùng kỳ năm trước. Ước tính năm 2024 đạt 3.240,66 tỷ đồng, tăng 9,43% so với cùng kỳ năm trước.
b) Hoạt động Vận tải
Hoạt động vận tải tháng mười Hai sôi động đáp ứng nhu cầu đi lại của hành khách và vận chuyển hàng hóa phục vụ các ngày lễ, Tết. So với cùng kỳ năm 2023, vận chuyển hành khách tăng 40,72% và luân chuyển hành khách tăng 42,25%; vận chuyển hàng hóa tăng 22,96% và luân chuyển hàng hóa tăng 22,94%.
Quý IV/2024, vận tải hành khách tăng 40,56% về vận chuyển và tăng 41,13% về luân chuyển so với cùng kỳ năm trước; vận tải hàng hoá tăng 22,6% về vận chuyển và tăng 22,55% về luân chuyển. Tính chung năm 2024, vận chuyển hành khách tăng 51,65% và luân chuyển tăng 51,27% so với năm trước; vận chuyển hàng hóa tăng 18,4% và luân chuyển tăng 18,27%.
Năm 2024 có nhiều kỳ nghỉ lễ kéo dài, có nhiều hoạt động, lễ hội diễn ra trên địa bàn tỉnh, đặc biệt là chuỗi sự kiện kỷ niệm 70 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ... đã thu hút khách thập phương về thăm quan, du lịch. Ngoài ra, từ tháng 12/2023, Cảng hàng không Điện Biên hoạt động trở lại góp phần thúc đẩy tăng trưởng ngành vận tải, kho bãi tăng cao.
Tổng doanh thu của hoạt động vận tải, kho bãi ước thực hiện tháng 12/2024 đạt 161,23 tỷ đồng, tăng 0,59% so với tháng trước và tăng 26,95% so với cùng kỳ năm trước; quý IV năm 2024 ước đạt 481,45 tỷ đồng, tăng 27,21% so cùng kỳ năm trước. Năm 2024, ước đạt 1.873,16 tỷ đồng, tăng 25,76% so cùng kỳ năm trước. Bao gồm: Vận tải hành khách ước đạt 455 tỷ đồng, tăng 51,55%; vận tải hàng hóa ước đạt 1.398,96 tỷ đồng, tăng 18,28%; hoạt động kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải ước đạt 19,19 tỷ đồng, tăng 198,29%.
Vận tải hành khách tháng 12/2024 ước đạt 322,07 nghìn lượt khách vận chuyển, tăng 0,4% so với tháng trước, tăng 40,72% so với cùng kỳ năm trước; luân chuyển 51,35 triệu HK.km, tăng 0,34% và tăng 41,25%. Quý IV năm 2024, vận tải hành khách ước đạt 963,56 nghìn hành khách vận chuyển, tăng 40,56% so với cùng kỳ năm trước; luân chuyển 153,67 triệu HK.km, tăng 41,13%. Năm 2024, vận tải hành khách ước đạt 4.078,35 nghìn hành khách vận chuyển, tăng 51,65% so với cùng kỳ năm trước, vượt 51,64% kế hoạch; luân chuyển 643,94 triệu HK.km, tăng 51,27%, vượt 41,22% kế hoạch.
Vận tải hàng hóa tháng 12/2024 ước đạt 798,63 nghìn tấn hàng hóa vận chuyển, tăng 0,61% so với tháng trước và tăng 22,96% so với cùng kỳ năm trước; luân chuyển 36,61 triệu tấn.km, tăng 0,65% và tăng 22,94%. Quý IV năm 2024, vận tải hàng hóa đạt 2.384,54 nghìn tấn hàng hóa vận chuyển, tăng 22,6% so với cùng kỳ năm trước và luân chuyển 109,25 triệu tấn.km, tăng 22,55%. Năm 2024 vận tải hàng hóa ước đạt 9.096,05 nghìn tấn hàng hóa vận chuyển, tăng 18,4% so với cùng kỳ năm trước, vượt 30,52% kế hoạch; luân chuyển 415,13 triệu tấn.km, tăng 18,27%, vượt 33,42% kế hoạch.
* Vận tải hàng không: Cảng hàng không Điện Biên hoạt động trở lại từ tháng 12/2023 đã làm doanh thu dịch vụ, số lượt khách và lượng hàng hóa bốc xếp thông qua Cảng năm 2024 tăng cao.
Doanh thu dịch vụ của Cảng hàng không Điện Biên ước năm đạt 16.124,07 triệu đồng, tăng 2,6 lần so với cùng kỳ năm trước.
Số lượt khách thông qua Cảng hàng không ước năm đạt 222.097 hành khách (chiều khách 110.915 hành khách, chiều khách đến 111.182 hành khách), số lượt khách tăng 315,93% (chiều khách đi tăng 324,75%, chiều khách đến tăng 307,48%). Số lượng hàng hóa bốc xếp qua Cảng hàng không ước năm đạt 3,83 tấn, tăng 99,06%.
c) Bưu chính viễn thông
Bưu chính phát triển ổn định. Hạ tầng viễn thông phát triển từng bước đáp ứng vai trò là hạ tầng số, hạ tầng kinh tế kỹ thuật quan trọng của Chính phủ số thúc đẩy chuyển đổi số, phát triển kinh tế số, xã hội số; chất lượng cung cấp dịch vụ viễn thông, internet được nâng cao, đáp ứng ngày một tốt hơn nhu cầu thị trường.
Dịch vụ bưu chính tiếp tục phát triển ổn định, bảo đảm thông tin liên lạc trong dịp lễ, tết và các sự kiện nổi bật của tỉnh. Doanh thu dịch vụ bưu chính, viễn thông ước đạt 909,47 tỷ đồng, tăng 1,31% (trong đó: dịch vụ bưu chính, chuyển phát đạt 139, 26 triệu đồng, tăng 2,32%; viễn thông đạt 770,21 tỷ đồng, tăng 1,13%). Hạ tầng viễn thông ngày càng hoàn thiện, đồng bộ. Số thuê bao điện thoại ước đạt (có đến cuối kỳ báo cáo) 515.642 thuê bao, giảm 8,89% (trong đó: cố định đạt 4.687 thuê bao, giảm 18,93%; di động đạt 510.955 thuê bao, giảm 8,78%). Số thuê bao internet ước (có đến cuối kỳ báo cáo) đạt 69.000 thuê bao tăng 19,67%.
II. ỔN ĐỊNH KINH TẾ VĨ MÔ, KIỂM SOÁT LẠM PHÁT
1.Hoạt động ngân hàng
Ngành ngân hàng đã bám sát chỉ đạo của Chính phủ và Ngân hàng Trung ương trong thực hiện quản lý hoạt động tài chính, tiền tệ trên địa bàn đảm bảo chặt chẽ, đúng định hướng; ưu tiên tập trung cho vay lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, doanh nghiệp nhỏ và vừa, các dự án trọng điểm của tỉnh; kịp thời thực hiện các yêu cầu, giải pháp theo chỉ đạo để tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, người dân.
Thị trường tiền tệ: Các ngân hàng trên địa bàn thực hiện nghiêm túc các quy định chỉ đạo của Ngân hàng Nhà nước về lãi suất. Áp dụng mức lãi suất cho vay hợp lý trên cơ sở lãi suất huy động và mức độ rủi ro của khoản vay, chia sẻ khó khăn với khách hàng, đảm bảo an toàn hoạt động của các tổ chức tín dụng. Mặt bằng lãi suất huy động thực tế bình quân tháng 10/2024 của các ngân hàng trên địa bàn tuy giảm sâu so với cuối năm 2023 nhưng đã có dấu hiệu tăng nhẹ so với tháng 9 trong các kỳ huy động ngắn hạn trong khi tiếp tục giảm ở huy động dài hạn; Lãi suất cho vay bình quân đối với các khoản vay mới và cũ còn dư nợ trong tháng 10 tuy giảm sâu so với năm 2023 nhưng có dấu hiệu tăng nhẹ ở cho vay ngắn hạn và giữ khá ổn định ở cho vay trung dài hạn.
Huy động vốn: Tổng nguồn vốn tín dụng ước thực hiện đến 31/12/2024 là 20.500 tỷ đồng, tăng 12,7% so với cùng kỳ năm 2023. Trong đó: Tiền gửi tiết kiệm là 16.830 tỷ đồng, tăng 8,48%, chiếm 82,1%/tổng nguồn vốn huy động tại địa phương; tiền gửi thanh toán ước đạt 3.650 tỷ đồng, tăng 37,48%; chiếm 17,8%/tổng nguồn vốn huy động. Nguồn vốn huy động từ tiền gửi tiết kiệm tăng trưởng ổn định, tiền gửi thanh toán đã bắt đầu tăng trở lại từ cuối quý III sau khi giảm liên tục từ cuối quý II; nguồn vốn huy động từ phát hành giấy tờ có giá tiếp tục giữ ổn định. Các ngân hàng trên địa bàn tiếp tục tuyên truyền và áp dụng nhiều hình thức huy động vốn khác nhau, linh hoạt, phù hợp với diễn biến thị trường.
Hoạt động tín dụng: Tổng dư nợ tín dụng ước thực hiện đến 31/12/2024 là 22.035 tỷ đồng, tăng 6,49% so với cùng kỳ năm 2023. Trong đó: Dư nợ cho vay ngắn hạn là 6.490 tỷ đồng, giảm 11,59%, chiếm 29,49% tổng dư nợ; dư nợ cho vay trung, dài hạn là 15.454 tỷ đồng, tăng 16,43%, chiếm 70,55% tổng dư nợ.
Chất lượng tín dụng: Nợ xấu của các NHTM, NHCSXH ước thực hiện đến ngày 31/12/2024 là 231 tỷ đồng, chiếm 1,05%/tổng dư nợ.
2. Đầu tư phát triển
Vốn đầu tư phát triển trên địa bàn năm 2024 tăng trưởng còn thấp, ước tính đạt 17.318,79 tỷ đồng, giảm 4,36% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước do địa phương quản lý ước năm 2024 đạt 84,87% kế hoạch và giảm 11,27% so với cùng kỳ năm trước.
Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước do địa phương quản lý tháng 12 năm 2024 ước đạt 449,69 tỷ đồng, tăng 12,77% so với tháng trước, giảm 19,96% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm: Vốn ngân sách Nhà nước cấp tỉnh đạt 300,84 tỷ đồng, tăng 12,03% và giảm 33,01%; vốn ngân sách Nhà nước cấp huyện đạt 132,40 tỷ đồng, tăng 13,74% và tăng 29,05%; vốn ngân sách Nhà nước cấp xã đạt 16,45 tỷ đồng, tăng 18,99% và tăng 62,59%.
Ước tính quý IV năm 2024, vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước đạt 1.207,59 tỷ đồng, tăng 25,93% so với quý trước, giảm 17,70% so với cùng kỳ năm trước. Cụ thể: Vốn ngân sách Nhà nước cấp tỉnh đạt 810,90 tỷ đồng, tăng 22,69% và giảm 30,79%; vốn ngân sách Nhà nước cấp huyện đạt 355,24 tỷ đồng, tăng 30,97% và tăng 32,29%; vốn ngân sách Nhà nước cấp xã đạt 41,45 tỷ đồng, tăng 55,03% và tăng 52,78%.
Ước tính năm 2024, vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước đạt 3.863,28 tỷ đồng, giảm 11,27% so với cùng kỳ năm trước, đạt 84,87% kế hoạch. Cụ thể: Vốn ngân sách Nhà nước cấp tỉnh đạt 2.651,47 tỷ đồng, giảm 20,74%, đạt 86,93%; vốn ngân sách Nhà nước cấp huyện đạt 1.102,23 tỷ đồng, tăng 20,84%, đạt 82,55%; vốn ngân sách Nhà nước cấp xã đạt 109,58 tỷ đồng, tăng 13,45%, đạt 65,81%.
Vốn đầu tư phát triển toàn xã hội trên địa bàn tỉnh Điện Biên tháng 12 năm 2024 ước đạt 1.834,40 tỷ đồng, tăng 9,11% so với tháng trước, giảm 7,94% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm: Vốn Nhà nước trên địa bàn đạt 815,02 tỷ đồng, tăng 9,72% và giảm 20,87% (vốn Trung ương quản lý đạt 317,74 tỷ đồng, tăng 6,01% và giảm 22,87%; vốn địa phương quản lý đạt 497,28 tỷ đồng, tăng 12,24% và giảm 19,54%); vốn ngoài Nhà nước đạt 1.019,38 tỷ đồng, tăng 8,62% và tăng 5,90%.
Trong quý IV năm 2024, vốn đầu tư phát triển toàn xã hội ước đạt 5.060,54 tỷ đồng, tăng 17,20% so với quý trước, giảm 9,21% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Vốn đầu tư thuộc ngân sách Nhà nước đạt 1.982,62 tỷ đồng, tăng 15,55% và giảm 13,57%; vốn đầu tư của dân cư và tư nhân đạt 2.813,87 tỷ đồng, tăng 19,15% và tăng 1,62%.
Ước tính năm 2024, vốn đầu tư phát triển toàn xã hội ước đạt 17.318,79 tỷ đồng, giảm 4,36% so với cùng kỳ năm trước, đạt 82,66% kế hoạch. Cụ thể: Vốn Nhà nước trên địa bàn đạt 7.839,90 tỷ đồng, giảm 12,45%, đạt 79,83% (vốn Trung ương quản lý đạt 3.535,18 tỷ đồng, giảm 13,45%, đạt 75,15%; vốn địa phương quản lý đạt 4.304,72 tỷ đồng, giảm 11,61%, đạt 84,13%); vốn ngoài Nhà nước đạt 9.478,90 tỷ đồng, tăng 3,56%, đạt 85,17%.
3. Thu, chi ngân sách Nhà nước
Thu ngân sách Nhà nước năm 2024 ước tăng 3,57% so với cùng kỳ năm trước. Chi ngân sách Nhà nước ước tăng 2,98% so với cùng kỳ năm trước, đảm bảo nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, quản lý Nhà nước trên địa bàn tỉnh.
a) Thu ngân sách Nhà nước
Tổng thu ngân sách Nhà nước năm 2024 ước đạt 1.635,31 tỷ đồng, tăng 3,67% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó:
Thu nội địa năm 2024 ước đạt 1.459,35 tỷ đồng (chiếm 89,24%), tăng 3,06% so với cùng kỳ năm trước (một số khoản thu chiếm tỷ trọng lớn tăng cao như: Thu từ khu vực công thương nghiệp ngoài quốc doanh tăng 10,56%; thu khác ngân sách tăng 25,21%, thu phí, lệ phí tăng 31,51%).
Thu cân đối hoạt động xuất nhập khẩu năm 2024 ước đạt 25,57 tỷ đồng (chiếm 1,56%), tăng 1,16% so với cùng kỳ năm trước.
Thu viện trợ, các khoản huy động đóng góp năm 2024 ước đạt 150,39 tỷ đồng (chiếm 9,2%), tăng 211,74% so với cùng kỳ năm trước.
b) Chi ngân sách Nhà nước
Tổng chi ngân sách Nhà nước năm 2024 ước đạt 15.599,47 tỷ đồng, tăng 2,98% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, chi đầu tư phát triển đạt 4.866,39 tỷ đồng, chiếm 31,2%, giảm 12,52%; chi thường xuyên đạt 10.720,69 tỷ đồng, chiếm 68,72%, tăng 11,94%.
4. Hoạt động xuất - nhập khẩu
Tình hình hoạt động xuất nhập khẩu, dịch vụ và hoạt động trao đổi thương mại biên giới năm 2024 được duy trì ổn định và có mức tăng trưởng khá không có tình trạng ùn tắc hàng hóa tại các cửa khẩu trên địa bàn tỉnh.
Năm 2024 ước đạt 139,96 triệu USD tăng 8,21% so với cùng kỳ năm trước, vượt 7,66% kế hoạch, trong đó: Kim ngạch xuất khẩu ước đạt 93,35 triệu USD, giảm 7,54% so với cùng kỳ năm trước, vượt 6,08% kế hoạch; mặt hàng xuất khẩu chủ yếu là hàng nông sản (ngô giống, quả thảo quả khô,...) và vật liệu xây dựng (thép xây dựng các loại, gạch men, xi măng). Kim ngạch nhập khẩu năm 2024 ước đạt 46,61 triệu USD, tăng 64,24% so với năm 2024, vượt 10,98% kế hoạch; mặt hàng nhập khẩu chủ yếu: Gỗ, hàng nông sản, máy móc thiết bị.
5. Giá cả
a) Chỉ số giá tiêu dùng (CPI)
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 12 năm 2024 tăng 0,22% so với tháng trước, so với cùng kỳ năm trước giảm 0,23% và so kỳ gốc năm 2019 tăng 9,69%. Bình quân quý IV năm 2024 CPI giảm 0,51% so với cùng kỳ năm trước. Bình quân năm 2024, CPI tăng 0,75% so với cùng kỳ năm trước.
Trong mức tăng 0,22% của CPI tháng 12 năm 2024 so với tháng trước có 07 nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá tăng, 02 nhóm hàng hóa có chỉ số bình ổn và 02 nhóm hàng hoá có chỉ số giá giảm.
(1) Bẩy nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá tăng gồm: Nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 0,19% (lương thực tăng 0,33% ; thực phẩm tăng 0,17% ; Ăn uống ngoài gia đình tăng 0,17%); nhóm may mặc, mũ nón, giày dép tăng 0,30%; nhóm nhà ở, điện nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 0,41%; nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,23%; nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,05%; nhóm giao thông tăng 0,49%; nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,15%.
(2) Hai nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá bình ổn là: Nhóm bưu chính viễn thông và nhóm giáo dục.
(3) Hai nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá giảm là: Nhóm đồ uống thuốc lá giảm 0,51% ; nhóm văn hóa, giải trí và du lịch giảm 0,09%.
CPI bình quân quý IV năm 2024 giảm 0,51% so với cùng kỳ năm trước, trong đó có 08 nhóm hàng có chỉ số tăng: Hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 2,15%; đồ uống và thuốc lá tăng 1,23%; may mặc, mũ nón, giầy dép tăng 0,63%; nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 1,53%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 1,81%; thuốc và dịch vụ y tế tăng 9,79%; văn hóa giải trí và du lịch tăng 0,24%; hàng hóa và dịch vụ khác tăng 3,12%. Có 03 nhóm hàng hóa có chỉ số giá tiêu dùng giảm: Giao thông giảm 4,72%; bưu chính viễn thông giảm 0,40%; giáo dục giảm 30,23% so với cùng kỳ năm trước.
CPI bình quân năm 2024 tăng 0,75% so với bình quân cùng kỳ năm 2023, trong đó có 08 nhóm hàng có chỉ số giá tăng: Hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 1,52% (lương thực tăng 1,95%; thực phẩm tăng 1,73%; ăn uống ngài gia đình tăng 0,47%); đồ uống và thuốc lá tăng 1,20%; may mặc, mũ nón, giầy dép tăng 0,85%; nhà ở, điện, nước, chất đốt và VLXD tăng 1,65%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 1,40%; thuốc và dịch vụ y tế tăng 6,91%; văn hóa giải trí và du lịch tăng 0,23%; hàng hóa và dịch vụ khác tăng 2,96%. Có 03 nhóm có chỉ số giảm: Giao thông giảm 1,26%; bưu chính viễn thông giảm 0,62%; giáo dục giảm 9,37%.
CPI bình quân năm 2024 tăng do một số nguyên nhân chủ yếu sau:
(1). Trong năm trên địa bàn tỉnh đã tổ chức thành công các hoạt động văn hóa, văn nghệ; ngày lễ, ngày kỷ niệm lớn, các hoạt động nhằm thúc đẩy du lịch thu hút du khách đến thăm quan, mua sắm đã tác động làm chỉ số một số nhóm hàng tăng.
(2). Giá gạo các loại tăng do nhu cầu mua sắm của người dân tăng. Bên cạnh đó, những năm trước lượng thóc, gạo được thương lái vận chuyển từ nơi khác đến nhiều (miền Nam) tuy nhiên năm nay lượng thóc, gạo tại địa phương không đủ để chuyển đi các tỉnh, lượng cung không đủ đáp ứng lượng cầu đã tác động làm tăng giá bán mặt hàng gạo.
(3). Vào dịp cuối năm các cơ sở sản xuất thu mua với lượng lớn thịt tươi để làm nguyên liệu thịt sấy khô, nạp xưởng phục vụ nhu cầu tại chỗ và vận chuyển đi các tỉnh bạn làm quà biếu, tặng Tết.
(4). Nhu cầu lương thực, thực phẩm vào cuối tháng 3 đến đầu tháng 5 tăng mạnh do trên địa bàn tỉnh đón tiếp nhiều lượng lực tham gia diễu binh, diễu hành Kỷ niệm 70 năm Chiến thắng Lịch sử Điện Biên Phủ cũng như khách tham quan du lịch trên địa bàn.
(5). Thời điểm cuối năm là thời điểm mà sức mua của người dân về một số các mặt hàng như: Quần áo, giày dép, đồ nội thất, gường, tủ, bàn ghế tăng đã tác động làm tăng chỉ số một số nhóm hàng.
(6). Nhóm vật liệu bảo dưỡng nhà ở tăng so với quý trước do cung không đủ cầu. Mặt khác, việc khai thác cát, đá càng ngày càng thắt chặt đã tác động làm tăng giá bán sản phẩm.
(7). Ngày 11/10/2024 Bộ Công Thương cũng đã ban hành quyết định số 2699/QĐ-BCT về việc điều chỉnh tăng giá bán lẻ điện bình quân thêm 4,8%.
(8). Thực hiện lộ trình tăng lương cơ sở, lương hưu và trợ cấp của Chính phủ từ ngày 01/7/2024 đã tác động làm chỉ số mặt hàng thiết yếu trong nhóm đồ uống thuốc lá, thiết bị gia đình và bảo hiểm y tế tăng cao so với năm trước.
(9). Thực hiện Thông tư số 22/2023/TT-BYT ngày 17 tháng 11 năm 2023 về quy định thống nhất giá dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh bảo hiểm y tế tác động làm giá dịch vụ khám, chữa bệnh trên địa bàn tỉnh tăng.
Bên cạnh đó, có một số yếu tố góp phần kiềm chế tốc độ tăng CPI bình quân năm 2024:
(1). Tính bình quân trong năm Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam đã điều chỉnh giảm giá bán xăng đã tác động làm chỉ số giá nhóm giao thông giảm so với cùng kỳ năm trước.
(2). Thực hiện Nghị quyết số 04/2024/NQ-HĐND ngày 18 tháng 6 năm 2024 về quy định mức học phí năm từ 2023-2024 đối với các cơ sở giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông công lập trên địa bàn tỉnh đã tác động làm giảm chỉ số giá nhóm giáo dục so với năm trước.
(3). Để bắt kịp với thị hiếu của người tiêu dùng, các hãng điện thoại luôn đưa ra các sản phẩm mới, các chương trình khuyến mại giảm giá bán để tăng doanh số và kích cầu tiêu dùng là nguyên nhân chủ yếu làm chỉ số giá nhóm bưu chính, viễn thông bình quân năm 2024 giảm so với năm trước.
* Chỉ số giá vàng và chỉ số giá đô la Mỹ
Chỉ số giá vàng tháng 12 giảm 1,57% so với tháng trước, tăng 15,83% so với cùng kỳ năm trước, tăng 119,37% so với kỳ gốc 2019; bình quân quý IV năm 2024 tăng 20,09%. Bình quân năm 2024 tăng 19,54% so với cùng kỳ năm trước.
Chỉ số giá đô la Mỹ tháng 12 bình ổn so với tháng trước, tăng 4,50% so với cùng kỳ năm trước, tăng 9,15% so với kỳ gốc 2019; bình quân quý IV năm 2024 tăng 3,32%. Bình quân năm 2024 tăng 5,0% so với cùng kỳ năm trước.
b) Chỉ số giá sản xuất quý IV/2024
Chỉ số giá sản xuất sản phẩm nông, lâm nghiệp và thủy sản quý IV/2024 Chỉ số giá sản xuất hàng nông, lâm nghiệp và thủy sản trên địa bàn tỉnh Điện Biên quý IV năm 2024 tăng 1,77% so với quý trước, tăng 5,24% so với cùng quý năm trước. Chỉ số tăng cả ở 3 nhóm sản phẩm chính cụ thể: Sản phẩm nông nghiệp tăng 1,88% và tăng 5,64%; sản phẩm lâm nghiệp và dịch vụ có liên quan tăng 0,96% và tăng 1,99%; sản phẩm thủy sản khai thác, nuôi trồng tăng 0,19% và tăng 0,5%.
Chỉ số giá sản xuất sản phẩm công nghiệp quý IV/2024 tăng 0,23% so với quý trước, tăng 0,65% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: 3 nhóm có chỉ số tăng là sản phẩm khai khoáng tăng 1,08% và giảm 0,6%; Sản phẩm công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 0,41% và giảm 0,54%; nhóm Nước tự nhiên khai thác; dịch vụ quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 0,6% và tăng 2,92%. 1 nhóm còn lại có chỉ số giảm: nhóm điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí giảm 0,76% và tăng 5,6%;
Chỉ số giá nguyên nhiên vật liệu dùng cho sản xuất quý IV/2024 giảm 0,41% so với quý trước, tăng 0,15% so với cùng kỳ năm trước. Nguyên nhân, chỉ số giá nguyên, nhiên vật liệu dùng cho sản xuất quý 4 giảm so với quý trước là do Tổng công ty Xăng dầu Việt Nam đã điều chỉnh giảm sâu giá bán xăng, dầu so với quý trước; giá sắt, thép giảm do bị ảnh hưởng từ giá sắt, thép trên thế giới; một số sản phẩm cây hàng năm và lâu năm đang chính vụ thu hoạch đã tác động làm giảm giá bán so với quý trước cụ thể: Nhóm nguyên nhiên vật liệu dùng cho sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản giảm 1,27%; nhóm nguyên nhiên vật liệu dùng cho sản xuất công nghiệp chế biến chế tạo giảm 0,07%; nhóm nguyên nhiên liệu chủ yếu dùng cho xây dựng giảm 1,72%.
III. MỘT SỐ VẤN ĐỀ XÃ HỘI
1. Dân số, lao động, việc làm
Dân số trung bình tỉnh Điện Biên năm 2024 là 656.706 người. Chất lượng dân số được cải thiện. Tình hình lao động, việc làm quý IV, cả năm 2024 có xu hướng ổn định và tăng trưởng. Lực lượng lao động, số người có việc làm và thu nhập bình quân tháng của lao động tăng so với quý trước và cùng kỳ năm trước.
Dân số trung bình năm 2024 ước tính 656.706 người, tăng 10.524 người, tương đương tăng 1,63% so với năm 2023. Trong tổng số, dân số thành thị 99.841 người, chiếm 15,2%; dân số nông thôn 556.865 người, chiếm 84,8%; nam 333.550 người, chiếm 50,78%; nữ 323.206 người, chiếm 49,22%.
Lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên năm 2024 ước tính là 351.663 người, tăng 3,57% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Lao động ở khu vực thành thị có 53.734 người (chiếm 15,28%) và khu vực nông thôn là 297.929 người (chiếm 84,72%).
Dự tính lao động có việc làm năm 2024 là 350.661 người, tăng 3,57% so với kỳ trước, trong đó lao động ở khu vực thành thị là 53.508 người (chiếm 15,26%) và nông thôn là 297.153 người (chiếm 84,74%). Chuyển dịch cơ cấu có xu hưởng giảm tỷ lệ lao động trong các ngành nông, lâm, thủy sản và tăng tỷ lệ lao động ở các ngành xây dựng và dịch vụ.
Tính chung năm 2024 tuyển mới đào tạo nghề cho 10.958 người, vượt 10,08% kế hoạch, tăng 20,84% so với năm 2023, vượt 24,52% kế hoạch.
Trong năm 2024, lao động có việc làm mới có xu hướng giảm so với cùng kỳ năm trước, quý IV có xu hướng giảm đi so với quý III. Quý IV năm 2024 có 2.098 lao động có việc làm mới, tính chung cả năm 2024 toàn tỉnh giải quyết việc làm mới cho 11.099 lao động, giảm 1,86% so với năm 2023, vượt 20,64 kế hoạch.
Có nhiều cơ hội tìm kiếm việc làm, nhiều sự lựa chọn cho người lao động, số người thất nghiệp giảm, trong năm có 1.366 người nộp hồ sơ bảo hiểm thất nghiệp (quý IV có 333 người); số người có quyết định hưởng trợ cấp thất nghiệp là 1.353 người (quý IV có 343 người). Tổng số tiền hưởng trợ cấp thất nghiệp là 20.328,58 triệu đồng (quý IV là 5.448,9 triệu đồng). Tiếp tục thực hiện tốt công tác tiếp nhận, giải quyết chế độ chính sách BHTN cho người lao động trên địa bàn tỉnh.
2. Đời sống dân cư và bảo đảm an sinh xã hội
Đời sống dân cư năm 2024 trên địa bàn tỉnh Điện Biên tương đối ổn định. Là năm Du lịch Quốc gia - Điện Biên 2024 cơ hội thuận lợi cho các ngành nghề dịch vụ trên địa bàn tỉnh phát triển nhanh và bền vững, đặc biệt là phát triển về du lịch. Trong năm được sự quan tâm và chỉ đạo sát sao của các cấp chính quyền thực hiện các chế độ chính sách, đảm bảo cho đời sống nhân dân, tạo việc làm và tăng thu nhập cho người lao động nên mức sống được nâng lên và cải thiện đáng kể.
Theo kết quả sơ bộ từ Khảo sát mức sống dân cư năm 2024, Thu nhập bình quân đầu người quý IV năm 2024 đạt 2,69 triệu đồng/người/tháng; tính chung năm 2024 ước đạt 2,58 triệu đồng/người/tháng, tăng 16,06% so với năm 2023. Ước tính, năm 2024, thu nhập bình quân tháng của người lao động trong khu vực nhà nước đạt 8.750 ngàn đồng (tăng 6,4% so với cùng kỳ năm trước), khu vực doanh nghiệp nhà nước đạt 7.030 ngàn đồng (tăng 2,77%), và khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước đạt 1.920 ngàn đồng (tăng 5,23%).
Tỷ lệ nghèo tiếp cận đa chiều (theo chuẩn nghèo đa chiều giai đoạn 2022-2025) là 21,29%, giảm 4,39 điểm phần trăm so với năm 2023 (số hộ nghèo toàn tỉnh là 30.327 hộ, giảm 5.595 hộ nghèo so với năm 2023).
Các chính sách an sinh xã hội tiếp tục được quan tâm thực hiện hiệu quả, trọng tâm là công tác phối hợp Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam triển khai Chương trình xây dựng nhà Đại đoàn kết cho hộ nghèo, hộ cận nghèo trên địa bàn tỉnh Điện Biên.
Năm 2024, tổng trị giá tiền và quà hỗ trợ cho các đối tượng là hơn 21.553,61 triệu đồng. Trong đó, hỗ trợ cho các đối tượng người có công, thân nhân người có công là 6.573,01 triệu đồng (trong đó: dịp tết Nguyên đán Giáp Thìn 2024 là 1.492,76 triệu đồng; dịp Kỷ niệm 70 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ 2.881,9 triệu đồng; dịp 27/7 là 2.198,35 triệu đồng), hỗ trợ cho hộ nghèo, hộ cận nghèo 14.980,6 triệu đồng .
Về cấp phát thẻ Bảo hiểm y tế trong năm 2024 đã phát miễn phí 477.412 thẻ (tăng so với năm 2023 14.643 thẻ) , trong đó: Trẻ em dưới 6 tuổi 76.847 thẻ, bảo trợ xã hội và cựu chiến binh 11.875 thẻ, người nghèo 159.172 thẻ, cận nghèo 4.358 thẻ và người dân tộc nằm trong vùng đặc biệt khó khăn 215.437 thẻ.
Ngoài ra, để người dân không bị thiếu đói, công tác cấp phát gạo từ nguồn dự trữ quốc gia do Trung ương cấp đã được triển khai kịp thời, đã xuất 964,35 tấn gạo hỗ trợ cho 64.290 nhân khẩu. Trong đó: Hỗ trợ 290,25 tấn gạo cho 4.720 hộ (giảm 24 hộ so với cùng kỳ năm trước) với 19.350 nhân khẩu (giảm so với cùng kỳ năm trước 1.543 nhân khẩu) trong dịp Tết Giáp Thìn; 674,1 tấn gạo hỗ trợ cho 9.962 hộ (44.940 nhân khẩu) thiếu đói kỳ giáp hạt.
Chương trình xây dựng nông thôn mới trong những năm qua có tác động tích cực, góp phần nâng cao đời sống người dân khu vực nông thôn. Đến nay, tỉnh Điện Biên chưa có xã đạt chuẩn nông thôn mới kiểu mẫu, nhưng đã có 04 xã được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao. Toàn tỉnh có 23 xã đạt chuẩn nông thôn mới và 25 xã cơ bản đạt chuẩn, với số tiêu chí bình quân đạt 14,3 tiêu chí/xã. Bên cạnh đó, toàn tỉnh cũng ghi nhận 179 thôn, bản đạt chuẩn nông thôn mới và nông thôn mới kiểu mẫu, đánh dấu những bước tiến quan trọng trong xây dựng nông thôn mới trên địa bàn.
3. Giáo dục, đào tạo
Kết quả tốt nghiệp năm học 2023-2024: Học sinh tiểu học hoàn thành chương trình đạt tỷ lệ 99,9%. Học sinh trung học cơ sở tốt nghiệp đạt tỷ lệ 99,83%. Trung học phổ thông tỷ lệ đỗ tốt nghiệp 99,51% (điểm trung bình các môn thi đỗ tốt nghiệp trung học phổ thông cao nhất trong 10 năm gần đây).
Năm học 2024-2025, quy mô trường lớp tiếp tục được rà soát, sắp xếp theo hướng giảm đầu mối, phù hợp với tình hình thực tế của địa phương và của ngành giáo dục. Đến nay toàn Ngành Giáo dục và Đào tạo có 485 cơ sở giáo dục và đào tạo (168 trường mầm non, 296 trường phổ thông, 17 trung tâm và 04 trường cao đẳng) với 7.333 lớp và 208.042 học sinh, sinh viên, học viên . So với cùng kỳ năm học trước giảm 01 trường; giảm 55 lớp; giảm 208 học sinh, sinh viên; so với kế hoạch UBND tỉnh giao tăng 05 trường (vượt 1,05% kế hoạch); giảm 36 lớp (đạt 99,67% kế hoạch), tăng 501 học sinh (vượt 0,24% kế hoạch). Các chỉ tiêu huy động dân số trong độ tuổi đến trường cơ bản đạt và vượt kế hoạch giao (có 9/9 chỉ tiêu đạt và vượt kế hoạch ).
Toàn tỉnh có 372/464 trường mầm non và phổ thông đạt kiểm định chất lượng giáo dục , có 365/464 trường mầm non và phổ thông được công nhận trường đạt chuẩn quốc gia; đạt 94,56% kế hoạch.
4. Y tế
a) Tình hình dịch bệnh và công tác phòng, chống dịch
Tình hình dịch bệnh: Trong quý IV, tình hình dịch bệnh trên địa bàn tỉnh cơ bản ổn định, không có diễn biến bất thường xẩy ra. Tuy vậy, dịch bệnh vẫn có rải rác tại một số thôn/bản nơi vùng sâu vùng xa, như bệnh thủy đậu, chân tay miệng, và dịch than. Trong năm đã xảy ra ra 07 ổ dịch với 65 ca mắc, tử vong 0, điều trị khỏi 65/65 ca. (giảm 13 ổ dịch và giảm 674 ca mắc, 01 ca tử vong so với cùng kỳ). Các ổ dịch trên đã được điều tra, xác minh, chẩn đoán và triển khai các biện pháp xử lý kịp thời.
Tình hình mắc các bệnh truyền nhiễm gây dịch: Trong năm 2024, hầu hết số ca mắc đều giảm so với cùng kỳ. Tuy nhiên, một số bệnh có ca mắc tăng so với cùng kỳ, như: Lỵ trực trùng, Tiêu chảy, Thuỷ đậu, Cúm, Quai bị, Rubella và đặc biệt là Uốn ván sơ sinh tử vong 02/03 ca mắc, bệnh do liên cầu lợn ở người tử vong 01/01 ca mắc.
Công tác phòng chống dịch: Ngành y tế tiếp tục triển khai thực hiện nghiêm túc, chủ động, đồng bộ các biện pháp phòng chống dịch trên địa bàn theo Kế hoạch phòng chống dịch bệnh truyền nhiễm ở người năm 2024 của UBND tỉnh. Tăng cường công tác truyền thông bằng nhiều hình thức giúp cho người dân hiểu và chủ động tham gia phòng chống dịch bệnh.
b) Tình hình lây nhiễm HIV/AIDS
Tình hình nhiễm HIV/AIDS vẫn diễn biến phức tạp, tính đến 30/11/2024, có 122/129 xã, phường, thị trấn thuộc 10/10 huyện, thị xã, thành phố trên địa bàn tỉnh có người nhiễm HIV. Tổng số tích lũy toàn tỉnh có 7.854 ca nhiễm HIV trong đó: 76 ca mắc mới; tích lũy số ca AIDS là 5.489 (không có ca nhiễm HIV chuyển giai đoạn AIDS mới trong tháng); số tử vong lũy tích 4.216 ca. Tổng số ca nhiễm HIV được quản lý là 3.419 chiếm 94% người nhiễm HIV trên địa bàn. Tỷ lệ nhiễm HIV còn sống/dân số 0,52%.
c) Tình hình vệ sinh an toàn thực phẩm
Công tác truyền thông về vệ sinh an toàn hực phẩm được tăng cường, đặc biệt trong dịp tết Nguyên đán Giáp Thìn, và mùa Lễ Hội Xuân; Lễ hội Hoa Ban, Tháng hành động vì an toàn thực phẩm, Lễ Diễu binh, diễu hành kỷ niệm 70 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ và các lễ hội khác của tỉnh đảm bảo an toàn.
Đã thành lập 429 đoàn kiểm tra liên ngành, chuyên ngành, đột xuất về an toàn thực phẩm, kết quả:
+ Kiểm tra công tác quản lý Nhà nước về an toàn thực phẩm của Ban Chỉ đạo liên ngành về an toàn thực phẩm các cấp, đối với 13 Ban Chỉ đạo: Các Ban Chỉ đạo an toàn thực phẩm các huyện, xã thực hiện tốt công tác chỉ đạo xây dựng và ban hành văn bản về công tác quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm.
+ Thực hiện thanh tra, kiểm tra liên ngành, chuyên ngành, đột xuất về an toàn thực phẩm tại các cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm, dịch vụ ăn uống đối với 4.679 cơ sở. Trong đó: Số cơ sở đạt yêu cầu về ATTP 4.668 cơ sở (đạt 99,8%). Số cơ sở không đạt yêu cầu về ATTP là 11 cơ sở (chiếm 0,2%).
Tiếp tục thực hiện việc kiểm tra và cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện vệ sinh an toàn thực phẩm cho các cơ sở sản xuất, chế biến và kinh doanh thực phẩm đủ điều kiện trên địa bàn toàn tỉnh. Lũy kế cấp giấy chứng nhận hoặc ký cam kết đảm bảo an toàn thực phẩm trên địa bàn toàn tỉnh đạt 98,6%.
Trong năm không xảy ra ca ngộ độc thực phẩm.
5. Hoạt động văn hóa, thông tin, Thể dục thể thao và du lịch
a) Sự kiện đặc biệt
Năm 2024 đã tổ chức thành công nhiều hoạt động như: Tuần Văn hóa, Du lịch Điện Biên - Thanh Hóa tại tỉnh Thanh Hoá (từ 19-21/01/2024), Khai mạc Năm Du lịch Quốc gia - Điện Biên và Lễ hội Hoa Ban năm 2024. Tổ chức Liên hoan tuyên truyền lưu động toàn quốc và Triển lãm tranh cổ động tấm lớn; các giải thể thao, các hoạt động trưng bày, triển lãm về kỷ niệm 70 năm Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ; các chương trình văn nghệ, nghệ thuật chào mừng kỷ niệm 70 năm chiến thắng Điện Biên Phủ.... Tổ chức thành công Chương trình nghệ thuật kỉ niệm 75 năm thành lập Đảng bộ tỉnh Điện Biên (10/10/1949 - 10/10/2024). Thực hiện trên 1.000 buổi tuyên truyền lưu động, phục vụ trên 450 nghìn lượt người xem, thực hiện căng treo 16.445 ngàn lượt băng rôn, cờ phướn, khẩu hiệu tuyên truyền.
Sáng ngày 07/5/2024 tại thành phố Điện Biên Phủ, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ tịch nước, Quốc hội, Chính phủ, Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và tỉnh Điện Biên đã tổ chức trọng thể Lễ kỷ niệm 70 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ và diễu binh, diễu hành với sự tham gia của hơn 12 nghìn người, để lại ấn tượng sâu sắc, tốt đẹp trong lòng Nhân dân, du khách và bạn bè quốc tế.
b) Hoạt động quản lý Nhà nước và văn hóa, văn nghệ
Hoạt động nghệ thuật quần chúng: Các đơn vị thuộc Sở đã tổ chức 50 hoạt động văn hóa, văn nghệ vượt 284,6% kế hoạch; 35 hoạt động văn hóa, văn nghệ tại sân Hành lễ tượng đài chiến thắng Điện Biên Phủ, đạt 100% kế hoạch. Toàn tỉnh hiện có 1.212 đội văn nghệ quần chúng, tổ chức 5,5 nghìn buổi biểu diễn với 350 nghìn lượt người xem, đạt 100% kế hoạch.
Hoạt động nghệ thuật chuyên nghiệp: Xây dựng 07 chương trình ca, múa, nhạc phục vụ nhiệm vụ chính trị, vượt 40% kế hoạch; biểu diễn các chương trình phục vụ nhiệm vụ chính trị: 135 buổi đạt 100% kế hoạch với hơn 280 nghìn lượt người xem, đạt 100% kế hoạch. Đặc biệt trong năm 2024, Đoàn đã phối hợp với các phòng, đơn vị liên quan thực hiện các nội dung trong chương trình Nghệ thuật Khai mạc, bế mạc Năm Du lịch quốc gia - Điện Biên và Lễ hội Hoa Ban năm 2024, cùng nhiều chương trình khác.
Hoạt động phát hành phim và chiếu bóng, phát hành sách: Thực hiện 57 buổi chiếu phim phục vụ 16,04 nghìn lượt người xem, đạt 100,4% kế hoạch; lồng tiếng 4/4 phim bằng tiếng dân tộc Thái, Mông; thực hiện 102 buổi chiếu phim tại Rạp phục vụ trên 1.243 lượt người xem, vượt 521,5% kế hoạch; thực hiện 1.200 buổi chiếu phim vùng cao phục vụ 370 nghìn lượt người xem, đạt 100% kế hoạch. Thực hiện phát hành 8,569 nghìn xuất bản phẩm, đạt 100% kế hoạch.
Hoạt động hệ thống Thư viện: Hệ thống thư viện công cộng tiếp tục bổ sung 12.500/9.000 bản, vượt 38,9% kế hoạch; có 228.058 bản sách, vượt 1,6% kế hoạch; cấp trên 6,39 nghìn thẻ Thư viện; phục vụ trên 344,5 nghìn lượt độc giả, vượt 30,2% kế hoạch; 761 nghìn lượt tài nguyên thông tin được phục vụ, vượt 44,7% kế hoạch.
Hoạt động phát huy giá trị di sản văn hóa: Di sản văn hóa của các dân tộc tiếp tục được bảo tồn, phát huy giá trị, đặc biệt là phát huy giá trị di tích lịch sử Quốc gia đặc biệt Chiến trường Điện Biên Phủ trong phát triển kinh tế - xã hội; quan tâm triển khai công tác nghiên cứu, bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa các dân tộc góp phần gìn giữ vốn tinh hóa văn hóa các dân tộc trong tỉnh. Trong năm hai bảo tàng và các điểm di tích đón 1.085,14 nghìn lượt khách tham quan, tăng 1,39 lần so cùng kỳ năm trước (trong đó 6.621 lượt khách nước ngoài, giảm 8,78% so cùng kỳ năm trước).
c) Hoạt động thể dục, thể thao
Về thể dục thể thao quần chúng: Hoạt động thể dục, thể thao quần chúng trong năm qua tiếp tục được đẩy mạnh và nâng cao chất lượng gắn với cuộc vận động “Toàn dân rèn luyện thân thể theo gương Bác Hồ vĩ đại”. Các hoạt động thể dục thể thao quần chúng đã tạo ra các sân chơi lành mạnh nâng cao sức khỏe cho cộng đồng dân cư. Số người tập luyện TDTT thường xuyên 233.948 người, đạt 33,72% trên tổng số dân toàn tỉnh; số hộ gia đình thể thao là 38.830 hộ, đạt 23% trên tổng số hộ gia đình toàn tỉnh; có 440 Câu lạc bộ TDTT cơ sở.
Tổ chức các giải thi đấu TDTT trên địa bàn tỉnh: Toàn tỉnh tổ chức 530 giải thi đấu, trong đó cấp toàn quốc 05 giải; cấp tỉnh 13 giải; cấp huyện, ngành 94 giải; cấp xã 326 giải các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp, trường học, đơn vị lực lượng vũ trang và các tổ chức khác tổ chức 90 giải. (quý IV tổ chức được 125 giải: thi đấu cấp toàn quốc 01 giải; cấp tỉnh 02 giải; cấp huyện, ngành 12 giải; cấp xã 79 giải; trường học, đơn vị lực lượng vũ trang và các tổ chức khác 29 giải.
Thể thao thành tích cao tiếp tục được quan tâm và đã đạt được những kết quả ấn tượng: thành lập 16 đoàn tham gia thi đấu các giải thể thao khu vực và toàn quốc đạt 57 huy chương các loại (trong đó có 36 huy chương thể thao thành tích cao); 02 VĐV tham gia đội tuyển quốc gia thi đấu tại giải vô địch Karate Đông Nam Á lần thứ 11 năm 2024 diễn ra tại Băng Cốc - Thái Lan, đạt 01 HCB, 01 HCĐ; 01 lượt vận động viên đạt kiện tướng quốc gia; 04 VĐV đạt cấp I quốc gia; 03 VĐV đạt cấp II quốc gia.
d) Lĩnh vực du lịch
Năm 2024, hoạt động du lịch tiếp tục là điểm sáng trong bức tranh tổng thể phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Với việc tổ chức thành công các sự kiện chính trị, văn hóa thể thao và du lịch , đặc biệt sự kiện Năm Du lịch quốc gia - Điện Biên 2024; các hoạt động, sự kiện của các Bộ, ban, ngành hưởng ứng kỷ niệm 70 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ và chuỗi sự kiện hướng tới Lễ kỷ niệm đã tạo động lực, hiệu ứng lan tỏa thúc đẩy phát triển du lịch của tỉnh,...
Tính chung năm 2024 lượng khách du lịch đạt 1,85 triệu lượt, tăng 1,85 lần so với cùng kỳ năm 2023, vượt 42,3% kế hoạch. Trong đó: Khách quốc tế đạt 11.500 lượt, tăng 1,53 lần. Tổng doanh thu từ hoạt động du lịch đạt 3.300 tỷ đồng, tăng 1,88 lần so cùng kỳ năm trước, vượt 50% kế hoạch.
6. Tai nạn giao thông, cháy nổ, vi phạm môi trường.
a) Tai nạn giao thông
Từ 15/10/2024 đến 14/11/2024, trên địa bàn toàn tỉnh đã xảy ra 13 vụ tai nạn giao thông làm 02 người chết và bị thương 16 người. Lũy kế từ ngày 15/11/2023 đến ngày 14/11/2024 trên địa bàn tỉnh Điện Biên đã xảy 97 vụ tai nạn và va chạm giao thông, làm 31 người chết, 101 người bị thương. So cùng kỳ năm trước: Số vụ tai nạn giảm tăng 3,69%; số người chết tăng 63,16%, số người bị thương giảm 7,34%. Nguyên nhân do vi phạm tốc độ khi điều khiển phương tiện, người đi bộ sang đường sai quy định, vượt xe không đúng quy định, đi sai làn đường, phần đường; vi phạm về nồng độ cồn.
b) Cháy nổ
Từ ngày 15/11/2023 đến ngày 14/11/2024 trên địa bàn tỉnh xảy ra 13 vụ cháy, giảm 23,53% so cùng kỳ năm trước; không có thiệt hại về người, ước thiệt hại khoảng 3.618 triệu đồng, giảm 51,37%. Nguyên nhân gây ra cháy là do sơ xuất, sự cố về thiết bị điện và chập thiết bị điện của xe ô tô điện trẻ em và gẫy ống dẫn công nghệ, gây phát sinh tia lửa điện tại khoang chứa xăng của cửa hàng xăng dầu.
c) Vi phạm môi trường
Trong tháng 12/2024 các cơ quan chức năng đã phát hiện 23 vụ vi phạm môi trường và xử lý 17 vụ với tổng số tiền phạt 169,79 triệu đồng, giảm 17,98% so với tháng trước và tăn 126,15% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung năm 2024 đã phát hiện 471 vụ vi phạm môi trường và xử lý 407 vụ với tổng số tiền phạt là 2.243,75 triệu đồng, tăng 19,18% so với năm trước. Các vụ vi phạm môi trường chủ yếu là phá rừng làm nương, tàng trữ, mua bán, chế biến lâm sản trái pháp luật.
7. Thiệt hại do thiên tai.
Năm 2024 trên địa bàn tỉnh xảy ra 32 đợt thiên tai làm 10 người chết, 03 người mất tích, 11 người bị thương; 401 con gia súc, 2.080 gia cầm bị chết và cuốn trôi; 1.449,57 ha lúa và 175,33 ha rau màu bị hư hỏng; 1.288 nhà bị hư hỏng; thiệt hại về giao thông, thủy lợi và một số thiệt hại khác. Tổng giá trị thiệt hại về tài sản ước tính 537,57 tỷ đồng, tăng 2,18 lần so với cùng kỳ năm 2023. Trong đó: thiệt hại do cơn bão số 3 làm 17 nhà bị hư hỏng; 397,33 ha lúa và 3,05 ha hoa màu bị hư hỏng và một số thiệt hại khác, ước thiệt hại là 44,4 tỷ đồng. Tổng số tiền cứu trợ do thiên tai là 45,79 tỷ đồng.
Đánh giá chung, năm 2024 trong bối cảnh tình hình thế giới diễn biến nhanh, phức tạp, khó lường. Trong nước nền kinh tế tiếp tục chịu tác động của nhiều yếu tố bất lợi bên ngoài và những hạn chế, bất cập nội tại, dịch bệnh, thiên tai, hạn hán, bão lũ diễn biến phức tạp …ảnh hưởng đến lớn đến nhiều ngành, lĩnh vực. Trên địa bàn tỉnh Điện Biên sản xuất kinh doanh vẫn gặp nhiều khó khăn thách thức như: Dịch bệnh, thiên tai vẫn luôn tiềm ẩn; mưa lũ, sạt lở gây thiệt hại nghiêm trọng; nguồn lực đầu tư còn hạn chế; triển khai thực hiện một số dự án trọng điểm còn chậm; công tác đền bù, giải phóng mặt bằng, đặc biệt tại các dự án có quy mô lớn còn nhiều vướng mắc, đến nay vẫn chưa được tháo gỡ…Trong bối cảnh đó, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo thường xuyên, quyết liệt, sâu sát, linh hoạt của Tỉnh ủy, HĐND, UBND, UBMTTQ tỉnh, sự nỗ lực của các cấp, các ngành, sự đoàn kết, đồng lòng, quyết tâm của cả hệ thống chính trị và nhân dân các dân tộc, cùng với cộng đồng doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội, tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh Điện Biên theo giá so sánh 2010 tăng 8,51% là mức tăng trưởng khá cao trong những năm gần đây. Bước sang năm 2025 nền kinh tế có những thời cơ, thuận lợi và khó khăn, thách thức đan xen. Trên địa bàn tỉnh vẫn tồn tại những khó khăn, thách thức cơ bản như nguồn lực đầu tư còn hạn chế, chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển, cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm, chưa vững chắc; thách thức về giảm nghèo, tác động và nguy cơ của dịch bệnh, thiên tai vẫn luôn tiềm ẩn. Để việc thực hiện thắng lợi kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Điện Biên các ngành, các địa phương cần tập trung vào một số nội dung chủ yếu sau:
- Tiếp tục huy động, lồng ghép các nguồn lực để triển khai có hiệu quả các kế hoạch, đề án phát triển sản xuất nông, lâm nghiệp; đẩy mạnh thực hiện cơ cấu lại ngành nông nghiệp theo hướng phát triển nông, lâm nghiệp, thủy sản hàng hóa; tập trung vào các sản phẩm chủ lực, đặc sản của từng địa phương theo chuỗi liên kết bảo đảm chất lượng; tiếp tục chú trọng duy trì và nâng cao chất lượng, giá trị thương hiệu gạo Điện Biên; mở rộng diện tích, phát triển cây ăn quả, cây ngắn ngày và các cây trồng có lợi thế như: macca, cao su, cà phê, chè, quế, sa nhân,...
- Tăng cường công tác phòng trừ dịch bệnh cho cây trồng, vật nuôi, nhằm phát hiện xử lý kịp thời giảm tối đa tổn thất cho người nông dân, chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi theo hướng sản xuất hàng hóa, đưa các loại cây, con giống có thời gian sinh trưởng ngắn và có năng suất, chất lượng cao vào sản xuất.
- Phát triển lâm nghiệp theo chuỗi từ phát triển rừng, bảo vệ rừng, sử dụng rừng đến chế biến và thương mại lâm sản. thực hiện các biện pháp PCCCR, bố trí lực lượng thường trực tại các vùng rừng có nguy cơ cháy cao.
- Duy trì hoạt động vận hành khai thác ổn định, có hiệu quả các nhà máy thủy điện đã vận hành khai thác. Tiếp tục thu hút các nhà đầu tư vào nghiên cứu, khảo sát, lập dự án đầu tư trong lĩnh vực công nghiệp, trong đó tập trung vào lĩnh vực năng lượng mới, năng lượng tái tạo, công nghiệp chế biến nông sản, sản xuất vật liệu xây dựng.
- Khuyến khích đầu tư dây chuyền công nghệ, thiết bị nghiền cát từ đá (cát nhân tạo) hiện đại, đồng bộ đối với các cơ sở sản xuất đá làm vật liệu xây dựng trên địa bàn tỉnh Điện Biên. Kịp thời tháo gỡ các khó khăn vướng mắc, đẩy nhanh tiến độ thực hiện các dự án phát triển nhà ở trên địa bàn tỉnh Điện Biên
- Tăng cường quản lý thị trường giá cả, trong đó cần kiểm soát chặt giá cả các mặt hàng thiết yếu phục vụ sản xuất và đời sống. Chủ động ứng phó trước những biến động của thị trường. Tăng cường kiểm tra việc thực hiện các quy định về đăng ký, kê khai, niêm yết giá. Kiên quyết xử lý nghiêm các trường hợp đầu cơ, găm hàng, thao túng thị trường, tăng giá bất hợp lý, buôn lậu qua biên giới.
- Khuyến khích nhu cầu tiêu dùng trong nước, trong tỉnh, tăng khả năng cạnh tranh của hàng hóa trong nước, trong tỉnh đối với hàng nhập khẩu, góp phần duy trì tăng trưởng công nghiệp chế biến, chế tạo. Kiểm soát chặt chẽ nhập khẩu, nhất là nhập khẩu tiểu ngạch và các hoạt động tạm nhập, tái xuất hàng nông sản. Nâng cao hiệu quả công tác quản lý thị trường, chống buôn lậu, gian lận thương mại, hàng nhái, hàng giả, kém chất lượng để bảo vệ sản xuất trong nước nói chung, trong tỉnh nói riêng và quyền lợi của người tiêu dùng.
- Thực hiện tốt các chính sách an sinh xã hội, bảo đảm đời sống dân cư. Tập trung quan tâm các xã, thôn bản khó khăn. Triển khai các hoạt động giám sát trong thực hiện chương trình giảm nghèo và thực hiện đầy đủ các chính sách hỗ trợ cho người nghèo.
- Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, phòng chống dịch bệnh, bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm. Chủ động phòng ngừa và xây dựng kế hoạch phòng chống và khắc phục hậu quả thiên tai nhằm ổn định sản xuất và đời sống.
Tác giả bài viết: Cục Thống kê tỉnh Điện Biên
Ghi rõ nguồn "Cục Thống kê tỉnh Điện Biên" hoặc "https://thongkedienbien.gov.vn" khi phát hành lại thông tin từ các nguồn này.
Ý kiến bạn đọc
Những tin cũ hơn