Page 26 - Dien Bien - Bản cuoi .Dieu tra NTNNGK 2020Lam
P. 26
1.3. Dịch vụ hỗ trợ kinh tế nông thôn và kinh tế phi nông
nghiệp có bước phát triển mới
(1) Hệ thống tín dụng, ngân hàng đóng vai trò tích cực trong
cung ứng vốn
Tại thời điểm 01/7/2020, toàn tỉnh có 6 xã có ngân hàng, chi
nhánh ngân hàng, quỹ tín dụng nhân dân hoạt động, chiếm 5,22% tổng
số xã trên địa bàn nông thôn, tăng 0,87 điểm phần trăm so với
01/7/2016. Hệ thống tín dụng, ngân hàng nông thôn thực sự là nguồn
cung ứng vốn quan trọng hỗ trợ kinh tế - xã hội nông thôn phát triển.
Hệ thống tín dụng ở nông thôn được hình thành tạo điều kiện thuận lợi
cho dân cư tiếp cận nguồn vốn tín dụng phục vụ sản xuất, kinh doanh
và đời sống,… Tuy nhiên, xã có ngân hàng và mô hình quỹ tín dụng
nhân dân hầu như không được mở rộng so với thời kỳ 2011-2016.
(2) Mạng lưới khuyến nông được duy trì, đẩy mạnh hoạt động tư
vấn, hướng dẫn kỹ thuật tuyển chọn và chăm sóc cây trồng, vật nuôi
Mạng lưới khuyến nông tiếp tục duy trì hoạt động tại các xã, thôn.
Năm 2020, toàn tỉnh có 115 xã có cán bộ khuyến nông, khuyến lâm,
khuyến ngư, chiếm 100% tổng số xã khu vực nông thôn; 115 xã có cán
bộ thú y, chiếm 100%. Tổng số cán bộ khuyến nông, khuyến lâm,
khuyến ngư và cán bộ thú y năm 2020 của các xã là 187 người. Lực
lượng cộng tác viên khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư và thú y
của các thôn cũng khá đông đảo. Tại thời điểm 01/7/2020, có 358 thôn
có cộng tác viên khuyến nông, khuyến lâm và khuyến ngư, chiếm
28,21% tổng số thôn và 192 thôn có cộng tác viên thú y, chiếm 15,13%
tổng số thôn. Trên địa bàn nông thôn còn có 14 xã có người hành nghề
thú y tư nhân, chiếm 12,17% tổng số xã với 23 người hành nghề.
(3) Cơ sở chuyên chế biến nông, lâm, thủy sản hình thành và
phát triển khá phổ biến
Trên địa bàn nông thôn toàn tỉnh hiện có 47 xã chuyên chế biến
nông, lâm, thủy sản, chiếm 40,87% tổng số xã với 435 hộ/cơ sở
26