Page 31 - Dien Bien - Bản cuoi .Dieu tra NTNNGK 2020Lam
P. 31
Tại thời điểm 01/7/2020, tổng diện tích đất trồng trọt và nuôi trồng
thủy sản sử dụng nhà kính, nhà lưới, nhà màng khu vực nông thôn có
3 ha (năm 2016 không có diện tích).
2. Một số hạn chế
2.1. Khai thác tiềm năng, lợi thế và sử dụng nguồn lực chưa
tạo được đột phá, hiệu quả thấp
Lực lượng lao động dồi dào là một lợi thế, nhưng các chương
trình, dự án đào tạo nghề chưa thật sự phù hợp và hiệu quả nên chất
lượng lao động vẫn thấp. Năm 2020, lao động nông, lâm nghiệp và
thủy sản trong độ tuổi lao động chưa qua đào tạo chiếm 92,58% tổng
số lao động nông, lâm nghiệp và thủy sản trong độ tuổi lao động.
2.2. Sản xuất nhỏ vẫn phổ biến, năng suất và chất lượng sản
phẩm, hàng hóa, dịch vụ không cao
Mặc dù kinh tế - xã hội nông thôn và sản xuất nông, lâm nghiệp,
thủy sản tiếp tục phát triển, nhưng nhìn chung sản xuất vẫn phân tán,
nhỏ lẻ. Mô hình hợp tác xã hoạt động kém hiệu quả nên số lượng hợp
tác xã giảm; số doanh nghiệp tăng nhanh trong những năm 2016-2020,
nhưng chủ yếu là các doanh nghiệp nhỏ nên quy mô sản xuất bình quân
không lớn. Số lao động bình quân 1 hợp tác xã nông, lâm nghiệp và
thủy sản năm 2020 là 9,6 lao động, bằng 80% năm 2015. Phần lớn các
đơn vị sản xuất có quy mô nhỏ, đầu tư thấp nên hiệu quả sản xuất kinh
doanh không cao. Kết quả sản xuất kinh doanh bình quân trang trại
trong 12 tháng trước thời điểm 01/7/2020 chỉ đạt 2.130 triệu đồng.
2.3. Ô nhiễm môi trường chậm được khắc phục
Bên cạnh những thành quả đạt được, sự phát triển kinh tế - xã
hội nông thôn và sản xuất nông, lâm nghiệp, thủy sản những năm vừa
qua bộc lộ ngày càng rõ những yếu kém về bảo vệ môi trường sinh
thái. Việc thu gom, xử lý chất thải của các doanh nghiệp, cơ sở sản
xuất, dịch vụ và rác thải, nước thải sinh hoạt của dân cư trên địa bàn
nông thôn còn nhiều bất cập. Tại thời điểm 01/7/2020, toàn tỉnh hiện
31