TÌNH HÌNH KINH TẾ - XÃ HỘI TỈNH ĐIỆN BIÊN THÁNG 9 VÀ 9 THÁNG NĂM 2023

Thứ sáu - 29/09/2023 09:45
Kinh tế thế giới trong 9 tháng đầu năm 2023 đối mặt với nhiều khó khăn và thách thức, chiến sự Nga - U-crai-na kéo dài, lạm phát toàn cầu mặc dù đã hạ nhiệt nhưng vẫn ở mức cao, Ngân hàng Trung ương của nhiều quốc gia vẫn theo đuổi chính sách tiền tệ thắt chặt đã tác động mạnh tới tăng trưởng kinh tế, đầu tư, tiêu dùng. Nhiều nền kinh tế lớn trong đó có các đối tác thương mại quan trọng của nước ta đã tăng trưởng chậm lại, thậm chí rơi vào suy thoái. Tại thời điểm tháng 9/2023 đa số các tổ chức quốc tế dự báo tăng trưởng kinh tế toàn cầu năm 2023 tăng nhẹ so với dự báo từ đầu năm nhưng vẫn thấp hơn so với tốc độ tăng trưởng năm 2022. Cụ thể, Liên minh châu Âu (EU) dự báo tăng trưởng kinh tế toàn cầu năm 2023 đạt 3,2%, điều chỉnh tăng 0,1 điểm phần trăm so với dự báo trong tháng 5/2023; Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) nhận định kinh tế toàn cầu năm 2023 tăng trưởng 3%, điều chỉnh tăng 0,3 điểm phần trăm so với dự báo trong tháng 6/2023; Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) dự báo tăng trưởng kinh tế thế giới năm 2023 đạt 3%, điều chỉnh tăng 0,2 điểm phần trăm so với dự báo tháng 4/2023; Fitch Ratings (FR) dự báo nền kinh tế thế giới năm 2023 tăng trưởng 2,5%, cao hơn 0,1 điểm phần trăm so với dự báo trong tháng 6/2023.

Đối với Việt Nam, các tổ chức quốc tế đều giảm dự báo tăng trưởng so với các báo cáo trước đây . Với quyết tâm phục hồi và phát triển kinh tế, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo Bộ, ngành, địa phương quyết liệt triển khai các nhiệm vụ, giải pháp của Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 06/01/2023 của Chính phủ, tiếp tục thực hiện đồng bộ các giải pháp của Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội, tạo động lực đột phá để phát triển kinh tế theo mục tiêu đã đề ra.

Trên địa bàn tỉnh Điện Biên, bên cạnh những khó khăn chung, tình hình kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh cũng có nhiều các yếu tố gây bất lợi như: Ảnh hưởng của dịch tả lợn Châu Phi, rét hại, mưa đá cục bộ tại một số địa phương, … gây ảnh hưởng không nhỏ đến tình hình sản xuất kinh doanh cũng như đời sống của Nhân dân trong tỉnh. Trước tình hình đó, Tỉnh ủy, Hội đồng Nhân dân, Ủy ban Nhân dân tỉnh thực hiện nghiêm túc, linh hoạt Nghị quyết số 01/NQ-CP của Chính phủ về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và Dự toán ngân sách Nhà nước năm 2023 vào tình hình thực tế tại địa phương, đồng thời chỉ đạo quyết liệt các ngành, địa phương tập trung thực hiện ngay từ những ngày đầu, tháng đầu của năm 2023. Nhằm hoàn thành các mục tiêu, chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội năm 2023. Kết quả đạt được của các ngành, lĩnh vực trong 9 tháng đầu 2023 trên địa bàn tỉnh Điện Biên như sau: 

I.  KINH TẾ

1. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản

Sản xuất nông nghiệp Chín tháng đầu năm 2023 tập trung chủ yếu vào sản xuất vụ đông xuân và vụ mùa. Chăn nuôi phát triển ổn định, dịch bệnh trên đàn gia súc, gia cầm đã được hạn chế. Sản xuất lâm nghiệp tập trung chăm sóc và bảo vệ rừng, phòng chống cháy rừng, đồng thời triển khai các chương trình, dự án trồng rừng và trồng các loại cây lâu năm. Nuôi trồng và khai thác thủy sản được duy trì phát triển tốt. 

1.1. Nông nghiệp

a) Trồng trọt

* Tháng 9 năm 2023:

Lúa mùa: Tính đến trung tuần tháng Chín, toàn tỉnh đã kết thúc gieo cấy, diện tích gieo cấy ước đạt 45.702,04 ha, tăng 0,93% so với cùng kỳ năm trước, đạt 102,08% kế hoạch, trong đó: Lúa ruộng 20.994,31 ha, tăng 1,34%, đạt 101,23% kế hoạch; lúa nương 24.707,73 ha, tăng 0,58%, đạt 102,82% kế hoạch. Hiện nay các địa phương đang tích cực thực hiện các biện pháp kỹ thuật chăm sóc diện tích lúa đã gieo cấy, đến nay lúa ruộng trà sớm đang trong giai đoạn chín sữa, trà chính vụ trong giai đoạn trổ bông, trà muộn trong giai đoạn đứng cái - làm đòng.

Các loại cây hoa màu khác: Tính đến trung tuần tháng 9 toàn tỉnh đã gieo trồng được 4.373,96 ha , tăng 4,3% so với cùng kỳ năm trước; nguyên nhân: Các huyện đã chủ động đẩy nhanh tiến độ gieo trồng vụ Mùa trong tháng cho kịp lịch thời vụ. 

Các loại cây nông nghiệp lâu năm: Trong tháng các địa phương trong tỉnh đang tập trung chăm sóc những diện tích hiện có để đảm bảo cho cây trồng sinh trưởng và phát triển tốt. Bên cạnh việc chăm sóc các loại cây trồng bà con nông dân thu hoạch sản phẩm một số cây ăn quả như chuối, dứa, bưởi, hồng, na …

Tình hình sâu, bệnh hại trên cây trồng: Trong tháng các ngành chức năng đã phối hợp với các địa phương tích cực thực hiện các biện pháp kỹ thuật kiểm tra, phát hiện và phun thuốc phòng trừ kịp thời ngăn chặn không để sâu, bệnh hại trên cây trồng lây lan ra diện rộng. Tổng diện tích nhiễm sinh vật gây hại trong tháng 5.700,40 ha, giảm 2.729,2 ha; diện tích phòng trừ 8.801,8 ha.

* Dự ước 9 tháng đầu năm 2023

Cây hàng năm: 9 tháng đầu năm 2023 toàn tỉnh đạt khá về sản lượng và giá trị; cơ cấu cây trồng tiếp tục được chuyển dịch theo hướng tích cực, mở rộng diện tích cây sắn, cây rau các loại có giá trị kinh tế cao, dễ tiêu thụ. 

Trong 9 tháng năm 2023, toàn tỉnh đã gieo trồng được 102.571,52 ha, tăng 0,77% cây hàng năm các loại so với cùng kỳ năm trước, trong đó: 

- Cây lúa: Diện tích gieo trồng đạt 55.615,72 ha , tăng 1,01%; sản lượng thu được 210.267,95 tấn, tăng 1,75%.

- Cây ngô: Diện tích gieo trồng đạt 24.399,44 ha, giảm 4,70%; sản lượng đạt 73.940,07 tấn, giảm 3,06%; nguyên nhân giảm: Một số huyện vùng cao của địa phương sử dụng giống ngô địa phương vào gieo trồng cho năng suất thu hoạch thấp, giá sản phẩm bán ra không ổn định, thị trường tiêu thụ hạn chế, bà con chuyển đổi một phần diện tích trồng ngô sang trồng sắn đem lại giá trị kinh tế cao hơn cho người dân.

- Cây lấy củ có chất bột: Diện tích gieo trồng đạt 14.140,13 ha, tăng 11,28% so với thực hiện năm trước. Trong đó, cây sắn 12.707,44 ha, tăng 17,26% ha , diện tích sắn được trồng toàn bộ ở vụ Xuân. Sản lượng 123.504,92 tấn, tăng 17,03%, một số địa phương tiếp tục đưa giống mới có năng suất, sản lượng sắn cao vào thực hiện trồng.

- Cây có hạt chứa dầu: Diện tích gieo trồng đạt1.619,56 ha, giảm 12,38% so với thực hiện năm trước. Nguyên nhân: Diện tích cây có hạt chưa dầu giảm mạnh ở cây đậu tương do cây đậu tương không mang lại hiệu quả kinh tế cao, không có thị trường tiêu thụ sản phẩm, cách bảo quản dự trữ khó; không được hỗ trợ về giống, năng suất không cao, giá bán thấp nên người dân chuyển đổi sang trồng thử nghiệm mô hình khoai tây, rau các loại liên kết với doanh nghiệp địa phương bao tiêu đầu ra sản phẩm.

- Cây rau, đậu và hoa các loại: Dự ước trồng được 5.151,31 ha, tăng 0,9% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, cây rau các loại ước trồng được 4.703,42 ha, tăng 1,55%; ước sản lượng 68.931,61 tấn, tăng 0,68%. Nguyên nhân tăng: Diện tích, năng suất, sản lượng rau các loại tăng ở hầu hết các địa phương trong toàn tỉnh, người dân nhận thấy trồng rau đem lại nguồn thu nhập ổn định nên mở rộng diện tích gieo trồng.

Nhìn chung diện tích gieo trồng cây hàng năm ước 9 tháng năm 2023 tăng so với cùng kỳ năm trước do thời tiết thuận lợi, dịch bệnh trên cây trồng giảm hơn so năm trước, sản phẩm sản xuất ra bán được giá, thị trường tiêu thụ ổn định; công tác chỉ đạo sản xuất của các cấp chính quyền được nhân dân đồng tình ủng hộ, các chính sách hỗ trợ người dân trong sản xuất được thực hiện hiệu quả... 

Cây lâu năm: Tổng diện tích hiện có 19.482,74 ha, tăng 16,44% so với cùng kỳ năm trước. Dự ước trong 9 tháng đầu năm 2023 sản lượng thu hoạch một số loại cây ăn quả chủ yếu như sau: Cây xoài diện tích hiện có 653,4 ha, giảm 6,13% ; sản lượng ước đạt 1.363,04 tấn, tăng 0,12%; Cây dứa diện tích hiện có 501,67 ha, tăng 4,09% ; sản lượng ước thu được 4.816,37 tấn, tăng 5,64%; cây bưởi diện tích hiện có 373,05 ha, tăng 11,40%, diện tích tăng chủ yếu tại huyện Điện Biên do chuyển đổi giống cây trồng phù hợp với xu hướng thị trường hiện nay; ước sản lượng thu hoạch 639,58 tấn, tăng 14,89%; cây cam, quýt diện tích giảm mạnh 25,92% do cây cằn cỗi, kém phát triển, quả cho thu hoạch đắng, khô múi, không có nơi tiêu thụ bà con phá bỏ chuyển sang trồng các loại cây thuộc nhóm quả nhiệt đới và cận nhiệt đới.

- Cây Mắc ca diện tích hiện có 6.970,71 ha  (chiếm tỷ trọng 35,78% trong tổng diện tích cây lâu năm), tăng 51,48% so với cùng kỳ năm trước; cây mắc ca hiện đang được tỉnh chú trọng quan tâm, khuyến khích đầu tư phát triển trên nền đất lâm nghiệp, diện tích trồng cây mắc ca chủ yếu do các doanh nghiệp đóng trong và ngoài địa bàn tỉnh đầu tư và chăm sóc. Ước sản lượng thu hoạch 162,22 tấn, tăng 197,87% so với cùng kỳ năm trước; 

- Cây cao su diện tích hiện có 5.009,9 ha, giảm 0,22%. Nguyên nhân giảm, do thanh lý 11,07 ha. Ước 9 tháng năm 2023 toàn tỉnh khai thác đạt 2.909,32 tấn, giảm 1,2%. Nguyên nhân sản lượng giảm do thời tiết không thuận lợi bà con tạm ngừng không cạo mủ trong một thời gian. 

- Cây cà phê diện tích hiện có 2.758,56 ha, tăng 4,52%. Nguyên nhân tăng, trong năm 2021 và năm 2022 cây cà phê được mùa, được giá, mặt khác toàn bộ sản phẩm đầu ra được Doanh nghiệp bao tiêu nên bà con chú trọng trồng và chăm sóc cây cà phê hơn các năm trước, đồng thời đã chuyển đổi một số diện tích trồng bơ tại huyện Mường Ảng sang trồng cây cà phê. Ước 9 tháng đầu năm 2023 thu hoạch 470 tấn, tăng 1,08% so với cùng kỳ năm trước.

- Cây chè diện tích hiện có 630,31 ha, giảm 0,1 ha, sản lượng thu hoạch đạt 105,15 tấn, tăng 3,58%. Trong đó cây chè búp: Ước diện tích hiện có 612,89 ha , giảm 0,16%; ước sản lượng thu hoạch 101,7 tấn, tăng 3,63% so với chính thức cùng kỳ năm trước. 

b) Chăn nuôi

Tình hình chăn nuôi gia súc, gia cầm trên địa bàn tỉnh phát triển tương đối ổn định. Đàn trâu, đàn bò vẫn luôn được trú trọng phát triển, các chính sách ưu tiên hỗ trợ về giống và đầu tư chuồng trại vẫn tiếp tục được quan tâm giúp các hộ chăn nuôi phát triển sản xuất. 

Dự ước sản lượng thịt hơi xuất chuồng gia súc gia cầm trong 9 tháng đầu năm 2023 đều tăng do: (1) Nhu cầu tiêu thụ của người dân; (2) Trong 9 tháng đầu năm diễn ra nhiều hoạt động lớn: Tết Nguyên đán 2023, Lễ hội Hoa Ban năm 2023 và Ngày hội văn hóa, thể thao và du lịch tỉnh Điện Biên lần thứ VII…; (3) nhu cầu xuất thịt đi các tỉnh dưới xuôi tăng; (4) giá thịt hơi xuất chuồng ổn định.

Tình hình thiệt hại do dịch bệnh trong tháng 9 và 9 tháng năm 2023:

Theo báo cáo của Chi cục Thú y tỉnh Điện Biên số lượng gia súc bị chết và tiêu huỷ là 249 con gia súc, trong đó chết do dịch tả lợn Châu Phi 234 con. Thực hiện tiêm phòng dịch bệnh trong tháng được 2.000 liều vắc xin Cúm gia cầm H5N1; công tác kiểm soát giết mổ được 311 con trâu, bò và 3.971 con lợn.

Số lượng gia súc bị chết và tiêu huỷ trong 9 tháng là 50 con trâu, 46 con bò, 479 con lợn và 01 con dê. Thực hiện tiêm phòng dịch bệnh được 176.302 liều vắc xin Tụ huyết trùng cho trâu, bò; 151.225 liều vắc xin Dịch tả cho lợn; 551.000 liều vắc xin cúm gia cầm H5N1 và 45.172 liều vắc xin dại chó mèo; công tác kiểm soát giết mổ được 3.030 con trâu bò, 38.892 con lợn.

1.2. Lâm nghiệp

Trong tháng không xảy ra cháy rừng, tuy nhiên đã xảy ra 31 vụ vi phạm các quy định về QLBVR; trong đó: Phá rừng trái phép 21 vụ, diện tích rừng bị phá 2,83 ha, nguyên nhân, do người dân phá rừng làm nương, rẫy tại 5/10 huyện, thị xã, thành phố; mua bán, vận chuyển, cất giữ,… lâm sản trái phép 10 vụ, cơ quan chức năng thu giữ 2,14m3 gỗ các loại. Tổng số tiền thu nộp ngân sách trong tháng là 144,37 triệu đồng. Lũy kế 9 tháng đầu năm toàn tỉnh đã xảy ra 345 vụ  vi phạm các quy định về Quản lý bảo vệ rừng; cơ quan chức năng đã tịch thu 78,50 m3 gỗ các loại; tổng số tiền thu nộp cho ngân sách nhà nước trong 9 tháng đầu năm 1.558,82 triệu đồng.

Trong tháng 9/2023, diện tích rừng trồng mới tập trung không thực hiện;  9 tháng năm 2023 ước đạt 201,42 ha, giảm 24,91%. Nguyên nhân, do thời tiết không thuận, việc triển khai trồng rừng chậm so với kế hoạch; số cây lâm nghiệp trồng phân tán 271,77 nghìn cây, hưởng ứng Đề án “Trồng 1 tỷ cây xanh của Thủ tướng Chính phủ giai đoạn 2021 – 2025” được trồng trên các diện tích đất trống, nương cũ bạc màu của bà con nhân dân nhằm góp phần bảo vệ môi trường sinh thái, cải thiện cảnh quan và ứng phó với biến đổi khí hậu, phát triển kinh tế xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống người dân và sự phát triển bền vững của đất nước;

Sản lượng gỗ dự ước khai thác trong tháng được 880 m3 gỗ, giảm 4,86% so với thực hiện cùng kỳ năm trước; củi khai thác được 59.442 ste, giảm 0,20%. Tính chung 9 tháng đầu năm 2023, sản lượng gỗ khai thác ước đạt 8.615 m3, giảm 5,06%; sản lượng củi khai thác đạt 586.560 ste, giảm 0,52%. 

1.3. Thủy sản

Nuôi trồng và khai thác thuỷ sản trên địa bàn tỉnh được duy trì phát triển tốt, dự ước toàn tỉnh có 2.748,45 ha ao, hồ nuôi trồng thủy sản, tăng 0,35% so với cùng kỳ năm trước (nuôi cá 2.746,95 ha). Mô hình nuôi cá lồng trên các hồ chứa nước, mô hình nuôi cá bể bồn tại xã Tênh Phông, huyện Tuần Giáo với 2.205 m3 cá hồi, giảm sâu so với năm 2022 . Tổng số lượng lồng bè hiện có trên địa bàn tỉnh là 275 lồng với tổng thể tích 42.542 m3. 

Sản lượng thủy sản tháng 9/2023 ước đạt 398,81 tấn, tăng 3,09% so với cùng kỳ năm trước. Sản lượng thủy sản quý III/2023 ước đạt 1.194,30 tấn, tăng 3,20% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm: Cá đạt 1.166,26 tấn, tăng 3,31%; tôm đạt 8,94 tấn, giảm 0,33%; thủy sản khác đạt 19,10 tấn, giảm 1,39%. Tính chung 9 tháng năm 2023, sản lượng thủy sản ước đạt 3.509,05 tấn, tăng 3,40% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm: Cá đạt 3.407,17 tấn, tăng 3,54%; tôm đạt 30,54 tấn, giảm 1,29%; thủy sản khác đạt 71,34 tấn, giảm 1,15%.

Sản lượng thủy sản nuôi trồng trong tháng ước tính đạt 374,98 tấn, tăng 3,32% so với thực hiện cùng kỳ năm trước, trong đó: Cá đạt 371,56 tấn, tăng 3,34%; tôm đạt 1,55 tấn, tăng 1,31%; thủy sản khác 1,87 tấn, tăng 1,08% so với cùng kỳ năm trước. Sản lượng thủy sản nuôi trồng quý III/2023 ước đạt 1.128,14 tấn, tăng 3,42% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Cá đạt 1.116,96 tấn, tăng 3,45%; tôm đạt 4,12 tấn, tăng 0,73%; thủy sản khác đạt 7,06 tấn, tăng 0,57%. Tính chung 9 tháng năm 2023, sản lượng thủy sản nuôi trồng ước tính đạt 3.302,99 tấn, tăng 3,63% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Cá đạt 3.263,39 tấn, tăng 3,66%; tôm đạt 10,89 tấn, tăng 0,83%; thủy sản khác đạt 28,71 tấn, tăng 0,53%. 

Sản lượng thuỷ sản khai thác trong tháng dự ước đạt 23,83 tấn, giảm 0,38% so với thực hiện cùng kỳ năm trước, trong đó: Cá đạt 18,38 tấn, tăng 0,16%; tôm đạt 1,70 tấn, giảm 1,16%. Sản lượng thủy khai thác quý III/2023 ước đạt 66,16 tấn, giảm 0,47% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Cá đạt 49,30 tấn, tăng 0,12%; tôm đạt 4,82 tấn, giảm 1,23%. Tính chung 9 tháng năm 2023, sản lượng thủy sản khai thác ước tính đạt 206,06 tấn, giảm 0,12% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Cá đạt 143,78 tấn, tăng 0,86%; tôm đạt 19,65 tấn, giảm 2,43%.

2. Sản xuất công nghiệp

9 tháng năm 2023 sự phát triển ngành công nghiệp trên địa bàn tỉnh không đồng đều giữa các ngành và còn phụ thuộc vào thời tiết đã ảnh hưởng rất lớn đến các thủy điện trên địa bàn tỉnh. Từ đầu năm đến nay chỉ có tháng 8 mưa nhiều và sản lượng tăng đáng kể tuy nhiên mức tăng trong tháng 8 không thể bù được sản lượng 7 tháng đầu năm đã giảm sâu do hạn hán kéo dài. Ngành sản xuất điện giảm sâu làm giảm chỉ số chung của toàn ngành.

Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp (IIP) tháng 9/2023 ước giảm 17,46% so với tháng trước và tăng 12,11% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: ngành khai khoáng tăng 10,11% và tăng 2,8%; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo chế tạo tăng 1,98% và tăng 9,49% ; ngành sản xuất và phân phối điện giảm 28,63% và tăng 15,41%  ; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải tăng 3,24% và tăng 0,09%.

Quý III năm 2023, chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp ước tính tăng 59,63% so quý trước và tăng 3,7% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Công nghiệp khai khoáng giảm 12,88% và tăng 1,52%; công nghiệp chế biến, chế tạo giảm 2,5% và tăng 12,11%; sản xuất và phân phối điện tăng 235,28% và giảm 1,01%; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải giảm 1,5% và giảm 0,82%. 

Tính chung 9 tháng năm 2023, chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp ước tính giảm 2,98% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2022 tăng 21,1%). Trong đó, ngành khai khoáng giảm 8,43% (nguyên nhân giảm mạnh do: Ngành khai thác than giảm 17,36%, do giá bán than thấp, doanh nghiệp khai thác không hiệu quả; ngành khai khoáng khác (đá, cát sỏi) giảm 7,82%, do mỏ đá của công ty Trường Thọ tạm ngừng khai thác vì lượng đá tồn kho lớn. Mỏ của công ty Hoàng Ánh và Công ty Duy Hồng cũng giảm sản lượng khai thác do đá khai thác ra phục vụ chủ yếu nhu cầu trong địa bàn huyện. Tháng 2, 3 mỏ đá của công ty Hưng Long ngừng hoạt động để sửa chữa dây chuyền nghiền đá, đây là mỏ đá có công suất lớn, sản lượng chiếm tỷ trọng lớn nên ảnh hưởng đến chỉ số chung của toàn ngành); ngành chế biến, chế tạo tăng 11,98%; ngành sản xuất và phân phối điện giảm 17,49% do lưu lượng nước ở các lòng hồ giảm sâu không đủ nước cho các thủy điện vận hành đúng công suất thiết kế; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 0,97%.

Chỉ số sản xuất 9 tháng năm 2023 của một số ngành công nghiệp cấp II giảm sâu so với cùng kỳ năm trước: Sản xuất điện giảm 17,49%; khai thác than cứng và than non giảm 17,36%; sản xuất trang phục giảm 12,51%; khai khoáng khác giảm 7,82%. Ở chiều ngược lại, chỉ số sản xuất công nghiệp của một số ngành tăng cao: Sản xuất hoá chất và các sản phẩm hoá chất tăng 96,44%; sản xuất đồ uống tăng 24,21%; sản xuất than cốc tăng 18,75%; sản xuất chế biến thực phẩm tăng 16,27%; chế biến gỗ và các sản phẩm từ gỗ, tre, nứa (trừ gường, tủ, bàn ghế) tăng 15,01%; in, sao chép bản ghi các loại tăng 12,91%; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn tăng 7,59%.

Một số sản phẩm công nghiệp trong 9 tháng năm 2023 giảm sâu so với cùng kỳ năm trước: Điện sản xuất giảm 18,71%; phẩm in khác (quy khổ 13cm x19cm) giảm 23,78%; than đá (than cứng) loại khác giảm 17,36%; đá xây dựng giảm 8,57%. Ở chiều ngược lại, một số sản phẩm tăng cao và khá so với cùng kỳ năm trước: Giường bằng gỗ các loại tăng 28,13%; than cốc và bán cốc luyện từ than đá tăng 18,75%; bàn bằng gỗ các loại tăng 15,12%; thiết bị dùng cho dàn giáo, ván khuôn, vật chống hoặc trụ cột chống hầm lò bằng sắt, thép, nhôm tăng 9,51%; Điện thương phẩm tăng 9,45%; xi măng Portland đen tăng 8,81%;

Như vậy, trong vòng 5 năm trở lại đây, 9 tháng năm 2023 là giai đoạn có chỉ số sản xuất công nghiệp giảm sâu nhất, nguyên nhân chủ yếu do sự giảm đột biến của ngành điện bị tác động khách quan từ thời tiết và sự biến đổi của khí hậu gây ảnh hưởng đến chỉ số chung của toàn ngành.

Chỉ số tồn kho toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ước tính tại thời điểm 30/9/2023 giảm 23,94 % so với tháng trước và giảm 45,18% so với cùng thời điểm năm trước. 

Chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tháng 9/2023 tăng 11,58% so với tháng trước và tăng 3,15% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 9 tháng năm 2023, chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 7,85% so với cùng kỳ năm 2022.

Số lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp công nghiệp tại thời điểm 01/9/2023 tăng 0,27% so với tháng trước, trong đó: Lao động khu vực doanh nghiệp Nhà nước ổn định; doanh nghiệp ngoài Nhà nước tăng 0,46%. So với tháng cùng kỳ năm trước giảm 7,37%, trong đó: Lao động khu vực doanh nghiệp Nhà nước giảm 5,46%; doanh nghiệp ngoài Nhà nước giảm 8,66%. Tính chung 9 tháng năm 2023 số lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp công nghiệp giảm 2,03% (khu vực doanh nghiệp Nhà nước giảm 5,8%, khu vực doanh nghiệp ngoài Nhà nước tăng 0,71%).  

4. Xây dựng 

Kết quả hoạt động xây dựng trên địa bàn tỉnh Điện Biên 9 tháng năm 2023 tập trung chủ yếu ở các công trình trọng điểm, được các cơ quan, đơn vị phối hợp chặt chẽ, thực hiện đẩy nhanh tiến độ thi công dự án. Các doanh nghiệp đẩy nhanh tiến độ hoàn thành công trình/hạng mục công trình để nghiệm thu bàn giao, thanh toán, các đơn vị nhà thầu huy động nguồn lực một cách tối đa đã góp phần làm tăng giá trị sản xuất xây dựng trên địa bàn toàn tỉnh. 

Giá trị sản xuất xây dựng theo giá hiện hành quý III năm 2023 ước đạt 3.441,5 tỷ đồng, tăng 16,87% so với quý trước và tăng 19,67% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 9 tháng năm 2023 giá trị sản xuất xây dựng trên địa bàn tỉnh Điện Biên ước đạt 8.446,95 tỷ đồng, tăng 20,9% so với cùng kỳ năm trước.

 Chia theo loại hình sở hữu: Doanh nghiệp ngoài Nhà nước đạt 5.092,06 tỷ đồng (chiếm 60,28%), tăng 25,6% ; các loại hình khác bao gồm xây dựng của các xã, phường, thị trấn; hoạt động của các đội xây dựng cá thể và xây dựng tự làm, tự ở của các hộ gia đình đạt 3.354,89 tỷ đồng (chiếm 39,72%), tăng 14,41%. 

Chia theo loại công trình: Công trình nhà ở đạt 3.259,34 tỷ đồng (chiếm 38,59%), tăng 10,85%. Công trình nhà không để ở đạt 1.632,83 tỷ đồng (chiếm 19,33%), tăng 4,61%. Công trình kỹ thuật dân dụng đạt 3.358,88 tỷ đồng (chiếm 39,76%), tăng 43,54%. Hoạt động xây dựng chuyên dụng đạt 195,95 tỷ đồng (chiếm 2,32%), tăng 34,98%.

5. Tình hình hoạt động của doanh nghiệp

a) Tình hình đăng ký doanh nghiệp

Dự tính 9 tháng năm 2023 toàn tỉnh có 98 doanh nghiệp thành lập mới, tăng 2% so với cùng kỳ (trong đó: tháng 9 dự tính có 6 doanh nghiệp, quý 3 có 9 doanh nghiệp thành lập mới), tổng số vốn đăng ký 882,4 tỷ đồng và bằng 63% so với số vốn đăng ký của các doanh nghiệp cùng kỳ năm trước. Dự kiến sử dụng 623 lao động. Trong đó nhiều công ty/doanh nghiệp có quy mô lớn như: Công ty TNHH đầu tư và phát triển đô thị Hoong Lếch (300 tỷ đồng), công ty cổ phần dược liệu quý quốc gia (50 tỷ đồng), công ty cổ phần tập đoàn đầu tư Nhật Minh (100 tỷ đồng), công ty cổ phần chế biến nông sản BHL điện biên (70 tỷ đồng), … Dự ước số doanh nghiệp đăng ký mới thực tế đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh 9 tháng  năm 2023 là 50 doanh nghiệp, chiếm khoảng 51% số doanh nghiệp thành lập mới và sử dụng lao động chủ yếu ở lĩnh vực xây dựng, thương mại và tư vấn xây dựng; có 10 doanh nghiệp khôi phục mã số thuế quay lại hoạt động sản xuất kinh doanh. Bên cạnh đó, số doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng hoạt động có thời hạn là 62 doanh nghiệp, 13 doanh nghiệp đã được hoàn tất thủ tục giải thể.

b) Xu hướng kinh doanh của doanh nghiệp 

Kết quả điều tra xu hướng kinh doanh của các doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo trong quý III/2023 cho thấy: Không có doanh nghiệp đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh tốt hơn so với quý II/2023; 91,3% số doanh nghiệp cho rằng tình hình sản xuất kinh doanh ổn định và có 8,7% doanh nghiệp đánh giá gặp khó khăn. Dự kiến quý IV/2023, có 69,75% doanh nghiệp đánh giá xu hướng sẽ tốt lên so với quý III/2023; 30,43% số doanh nghiệp cho rằng tình hình sản xuất kinh doanh sẽ ổn định và không có doanh nghiệp dự báo khó khăn hơn. Trong đó, khu vực doanh nghiệp ngoài Nhà nước với 100% số doanh nghiệp dự báo tình hình sản xuất kinh doanh quý IV/2023 tốt hơn so với quý III/2023; khu vực doanh nghiệp ngoài quốc doanh có 68,18% doanh nghiệp đánh giá xu hướng sẽ tốt lên so với quý III/2023; 31,82% số doanh nghiệp cho rằng tình hình sản xuất kinh doanh sẽ ổn định và không có doanh nghiệp dự báo khó khăn hơn. 

6. Thương mại, dịch vụ, vận tải

a) Bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng 

Hoạt động thương mại và dịch vụ tháng Chín tương đối ổn định với tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tăng 0,53% so với tháng trước và  tăng 30,43% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 9 tháng năm 2023, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tăng 36,47% so với cùng kỳ năm trước, trong đó quý I tăng 36,27%, quý II tăng 40,86% và quý III tăng 33,1%.

Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng Chín năm 2023 ước tính đạt 1.705,7 tỷ đồng, tăng 0,53% so với tháng trước, tăng 30,43% so với cùng kỳ năm trước. Trong quý III/2023, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng ước đạt 5.090,79 tỷ đồng, tăng 2,68% so với quý trước và tăng 33,1% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 9 tháng năm 2023, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng ước đạt 14.692,76 tỷ đồng, tăng 36,47% so với cùng kỳ năm trước.

* Bán lẻ hàng hoá 

Xét theo ngành hoạt động trong tổng mức bán lẻ hàng hóa tháng 9, quý III và 9 tháng đầu năm 2023 như sau:

* Dịch vụ lưu trú và ăn uống 

Doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống tháng 9/2023 ước đạt 73,99 tỷ đồng, tăng 0,58% so với tháng trước và tăng 26,41% so với cùng kỳ năm trước. Trong quý III năm 2023 đạt 220,71 tỷ đồng, tăng 2,49% so với trước và tăng 30,59% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 9 tháng năm 2023 đạt 639,17 tỷ đồng, tăng 37,66% so cùng kỳ năm trước, bao gồm: Dịch vụ lưu trú đạt 71,56 tỷ đồng, tăng 74,39%; dịch vụ ăn uống đạt 567,61 tỷ đồng, tăng 34,1%.

* Dịch vụ khác

Doanh thu một số ngành dịch vụ khác tháng 9/2023 ước tính đạt 76,57 tỷ đồng, tăng 1,52% so với tháng trước, tăng 17,95% so với cùng kỳ năm trước. Trong quý III năm 2023 đạt 226,41 tỷ đồng, tăng 4,35% so với quý trước và tăng 19,63% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 9 tháng năm 2023 đạt 652,87 tỷ đồng, tăng 25,40% so với cùng kỳ năm trước.

b) Hoạt động Vận tải

Hoạt động vận tải trong tháng Chín duy trì đà tăng trưởng tích cực so với cùng kỳ năm trước, trong đó: vận chuyển hành khách tăng 47,12% và luân chuyển hành khách tăng 42,47%; vận chuyển hàng hóa tăng 49,60% và luân chuyển hàng hóa tăng 48,00%. Quý III năm 2023, so với cùng kỳ năm trước: Vận chuyển hành khách tăng 55,79%, luân chuyển hành khách tăng 50,42%; vận chuyển hàng hóa tăng 56,44%, luân chuyển hàng hóa tăng 54,44%. 

Tính chung 9 tháng đầu năm 2023, vận chuyển hành khách tăng 95,72% và luân chuyển hành khách tăng 90,05% so với cùng kỳ năm trước; vận chuyển hàng hóa tăng 72,77% và luân chuyển hàng hóa tăng 70,08% so với cùng kỳ năm trước. 

Tổng doanh thu của hoạt động vận tải, kho bãi ước thực hiện tháng 9/2023 đạt 145,69 tỷ đồng, tăng 0,19% so với tháng trước và tăng 45,4% so với cùng kỳ năm trước; quý III năm 2023 ước đạt 436,16 tỷ đồng, tăng 52,61% so cùng kỳ năm trước. Tính chung 9 tháng năm 2023, ước đạt 1.289,15 tỷ đồng, tăng 74,29% so cùng kỳ năm trước. Bao gồm: Vận tải hành khách ước đạt 257,72 tỷ đồng, tăng 98,37%; vận tải hàng hóa ước đạt 1.025,27 tỷ đồng, tăng 70,72%; hoạt động kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải ước đạt 6,16 tỷ đồng, giảm 32,92%. 

Vận tải hành khách tháng 9/2023 ước đạt 266,07 nghìn lượt khách vận chuyển, tăng 0,36% so với tháng trước, tăng 47,12% so với cùng kỳ năm trước; luân chuyển 41,05 triệu HK.km, tăng 0,43% và tăng 42,47%; quý III năm 2023, vận tải hành khách ước đạt 795,64 nghìn hành khách vận chuyển, tăng 55,79% so với cùng kỳ năm trước; luân chuyển 122,67 triệu HK.km, tăng 50,42%.

Tính chung 9 tháng năm 2023, vận tải hành khách ước đạt 2.334,45 nghìn hành khách vận chuyển, tăng 95,72% so với cùng kỳ năm trước; luân chuyển 357,65 triệu HK.km, tăng 90,05%.

Vận tải hàng hóa tháng 9/2023 ước đạt 756,74 nghìn tấn hàng hóa vận chuyển, tăng 0,13% so với tháng trước và tăng 49,6% so với cùng kỳ năm trước; luân chuyển 34,43 triệu tấn.km, tăng 0,14% so với tháng trước và tăng 48% so với cùng kỳ năm trước; quý III năm 2023, vận tải hàng hóa đạt 2.267,07 nghìn tấn hàng hóa vận chuyển, tăng 56,44% so với cùng kỳ năm trước và luân chuyển 103,12 triệu tấn.km, tăng 54,44%.

Tính chung 9 tháng năm 2023 vận tải hàng hóa đạt 6.702 nghìn tấn hàng hóa vận chuyển, tăng 72,77% so với cùng kỳ năm trước và luân chuyển 304,19 triệu tấn.km, tăng 70,08%.

* Vận tải hàng không: Kế hoạch tạm dừng đóng cửa sân bay Điện Biên từ 0h ngày 15/4/2023 đến hết ngày 17/12/2023 để phục vụ thi công các hạng mục của Dự án đầu tư xây dựng mở rộng Cảng hàng không Điện Biên đã làm giảm doanh thu dịch vụ Cảng hàng không Điện Biên và số lượt khách cũng như số lượng hàng hóa bốc xếp thông qua Cảng hàng không 9 tháng đầu năm 2023.

Doanh thu dịch vụ của Cảng hàng không 9 tháng năm ước đạt 3.741,93 triệu đồng, giảm 51,98% so với cùng kỳ năm trước. Số lượt khách thông qua Cảng hàng không 9 tháng năm đạt 39.488 hành khách (chiều khách đi 19.047 hành khách, chiều khách đến 20.441 hành khách), so với cùng kỳ năm trước số lượt khách giảm 68,12% (chiều khách đi giảm 68,65%, chiều khách đến giảm 67,4%). Số lượng hàng hóa bốc xếp qua Cảng hàng không 9 tháng năm 2023 đạt 1,86 tấn, giảm 79,74% so với cùng kỳ năm trước.

c) Bưu chính viễn thông

Dịch vụ bưu chính viễn thông tiếp tục đà tăng trưởng; cơ sở hạ tầng được mở rộng; chất lượng dịch vụ có nhiều đổi mới, đa dạng, đáp ứng ngày một tốt hơn nhu cầu thị trường.

Doanh thu dịch vụ bưu chính, viễn thông quý III ước đạt 223,88 tỷ đồng, tăng 0,76% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 9 tháng năm doanh thu dịch vụ bưu chính, viễn thông đạt 679,06 tỷ đồng, tăng 1,82% so với cùng kỳ năm trước, (trong đó: doanh thu bưu chính, chuyển phát 107,750 tỷ đồng, tăng 6,76%; doanh thu dịch vụ viễn thông đạt 571,31 tỷ đồng, tăng 0,94).

Số thuê bao điện thoại ước (có đến cuối kỳ báo cáo) đạt 570.618 thuê bao, (thuê bao cố định đạt 5.616 thuê bao; thuê bao di động đạt 565.002 thuê bao); so với cùng kỳ năm trước giảm 5,99% (thuê bao cố định giảm 10,66%; thuê bao di động tăng 6,19%). Số thuê bao internet ước (có đến cuối kỳ báo cáo) đạt 63.000 thuê bao, so với cùng kỳ năm trước tăng 12,26%.

II. ỔN ĐỊNH KINH TẾ VĨ MÔ, KIỂM SOÁT LẠM PHÁT

1. Hoạt động ngân hàng 

Ngành ngân hàng đã bám sát chỉ đạo của Chính phủ và Ngân hàng Trung ương trong thực hiện quản lý hoạt động tài chính, tiền tệ trên địa bàn đảm bảo chặt chẽ, đúng định hướng; ưu tiên tập trung cho vay lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, doanh nghiệp nhỏ và vừa, các dự án trọng điểm của tỉnh; kịp thời thực hiện các yêu cầu, giải pháp theo chỉ đạo để tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, người dân.

Huy động vốn: Tổng nguồn vốn tín dụng ước thực hiện đến 30/9/2023 là 16.790 tỷ đồng, giảm 2,21% so với 30/6/2023 và tăng 13,26% so với cùng kỳ năm 2022. Trong đó: Tiền gửi tiết kiệm là 14.920 tỷ đồng, giảm 2,77% so với 30/6/2023, tăng 13,61% so với cùng kỳ năm 2022; chiếm 88,86%/tổng nguồn vốn huy động tại địa phương. Nguồn vốn tăng chủ yếu ở tiền gửi tiết kiệm, đặc biệt là tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn trên 12 tháng. Các ngân hàng trên địa bàn tiếp tục tuyên truyền và áp dụng nhiều hình thức huy động vốn khác nhau, linh hoạt, phù hợp với diễn biến thị trường.

 Hoạt động tín dụng: Tổng dư nợ tín dụng ước thực hiện đến 30/9/2023 là 19.550 tỷ đồng, giảm 4,09% so với 30/6/2023 và giảm 0,79% so với cùng kỳ năm 2022. Trong đó: dư nợ cho vay ngắn hạn là 7.300 tỷ đồng, giảm 8,52% và giảm 7,53%, chiếm 37,34% tổng dư nợ; dư nợ cho vay trung, dài hạn là 12.250 tỷ đồng, giảm 0,94% và tăng 3,49%, chiếm 62,66% tổng dư nợ. 

Nợ xấu của các NHTM, NHCSXH ước thực hiện đến ngày 30/9/2023 là 330 tỷ đồng, chiếm 1,69%/tổng dư nợ. 

2. Đầu tư phát triển

Vốn đầu tư phát triển trên địa bàn 9 tháng năm 2023 tăng trưởng tích cực, ước tính đạt 12.859.75 tỷ đồng, tăng 18,93% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước do địa phương quản lý 9 tháng đạt 63,37% kế hoạch và tăng 42,32% so với cùng kỳ năm 2022. 

Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước do địa phương quản lý tháng 9/2023 ước đạt 382,35 tỷ đồng, tăng 3,31% so với tháng trước, tăng 31,03% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm: Vốn ngân sách Nhà nước cấp tỉnh đạt 288,48 tỷ đồng, tăng 3,2% và 32,11%; vốn ngân sách Nhà nước cấp huyện đạt 84,05 tỷ đồng, tăng 3,41% và 36,12%; vốn ngân sách Nhà nước cấp xã đạt 9,81 tỷ đồng, tăng 5,97% và giảm 16,07%. 

Ước tính quý III năm 2023, vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước đạt 1.170,67 tỷ đồng, tăng 14,56% so với quý trước, tăng 41,95% so với cùng kỳ năm trước. Cụ thể: Vốn ngân sách Nhà nước cấp tỉnh đạt 883,81 tỷ đồng, tăng 14,68% và 46,11%; vốn ngân sách Nhà nước cấp huyện đạt 257,85 tỷ đồng, tăng 13,46% và 38,48%; vốn ngân sách Nhà nước cấp xã đạt 29,01 tỷ đồng, tăng 21,14 và giảm  13,67%.

Ước tính 9 tháng năm 2023, vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước đạt 2.930,71 tỷ đồng, tăng 42,32% so với cùng kỳ năm trước, bằng 63,37% kế hoạch. Cụ thể: Vốn ngân sách Nhà nước cấp tỉnh đạt 2.215,59 tỷ đồng, tăng 47,59%, bằng 63,08%; vốn ngân sách Nhà nước cấp huyện đạt 645,71 tỷ đồng, tăng 35,02%, bằng 64,42%; vốn ngân sách Nhà nước cấp xã đạt 69,42 tỷ đồng, giảm 13,05%, bằng 63,1%.

 Vốn đầu tư phát triển toàn xã hội trên địa bàn tỉnh Điện Biên tháng 9/2023 ước đạt 1.574,35 tỷ đồng, tăng 5,87% so với tháng trước, tăng 12,51% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm: Vốn Nhà nước trên địa bàn đạt 722,17 tỷ đồng, tăng 3,02% và 2,62% (vốn Trung ương quản lý đạt 304,07 tỷ đồng, tăng 2,65% và giảm 18,46%; vốn địa phương quản lý đạt 418,11 tỷ đồng, tăng 3,28% và 26,37%); vốn ngoài Nhà nước đạt 852,18 tỷ đồng, tăng 8,42% và 22,52%. 

Trong quý III năm 2023, vốn đầu tư phát triển toàn xã hội ước đạt 4.740,26 tỷ đồng, tăng 7,10% so với quý trước, tăng 14,82% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Vốn đầu tư thuộc ngân sách Nhà nước đạt 1.983,58 tỷ đồng, tăng 12,88% và tăng 27,38%; vốn đầu tư của dân cư và tư nhân đạt 2.551,48 tỷ đồng, tăng 6,83% và tăng 20,5%.

Ước tính 9 tháng năm 2023, vốn đầu tư phát triển toàn xã hội ước đạt 12,859,75 tỷ đồng, tăng 18,93% so với cùng kỳ năm trước, bằng 63,85% kế hoạch. Cụ thể: Vốn Nhà nước trên địa bàn đạt 5.879,38 tỷ đồng, tăng 14,23%, bằng 62,48% (vốn Trung ương quản lý đạt 2.626,36 tỷ đồng, giảm 5,48%, bằng 61,76%; vốn địa phương quản lý đạt 3.253,02 tỷ đồng, tăng 37,37%, bằng 63,08%); vốn ngoài Nhà nước đạt 6.980,36 tỷ đồng, tăng 23,19%, bằng 65,04%.

3. Thu, chi ngân sách Nhà nước

Thu ngân sách Nhà nước 9 tháng năm 2023 ước tăng 9,01% so với cùng kỳ năm trước. Chi ngân sách Nhà nước ước tăng 22,4% so với cùng kỳ năm trước, đảm bảo nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, quản lý Nhà nước trên địa bàn tỉnh.

a) Thu ngân sách Nhà nước

Tổng thu ngân sách Nhà nước tháng 9 năm 2023 ước đạt 113,98 tỷ đồng. Lũy kế tổng thu ngân sách Nhà nước 9 tháng năm 2023 đạt 1.196,69 tỷ đồng, tăng 9,01% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó:

- Thu nội địa tháng 9 năm 2023 ước đạt 99,85 tỷ đồng; lũy kế 9 tháng năm 2023 đạt 1.125,44 tỷ đồng (chiếm 94,05%), tăng 11,59% so với cùng kỳ năm trước (một số khoản thu chiếm tỷ trọng lớn tăng cao như: Các khoản thu về nhà đất tăng 54,27%%; thuế thu nhập cá nhân tăng 13,79%; thu phí, lệ phí tăng 10,03%).

- Thu viện trợ, các khoản huy động đóng góp tháng 9 ước đạt 20 tỷ đồng; lũy kế 9 tháng năm 2023 ước đạt 60,35 tỷ đồng (chiếm 5,04%), giảm 17,01% so với cùng kỳ năm trước. 

b) Chi ngân sách Nhà nước

Tổng chi ngân sách Nhà nước tháng 9 năm 2023 ước đạt 1.289,87 tỷ đồng; lũy kế 9 tháng năm 2023 ước đạt 10.364,89 tỷ đồng, tăng 22,63% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, chi đầu tư phát triển đạt 3.787,52 tỷ đồng, chiếm 36,61%, tăng 66,56%; chi thường xuyên đạt 6.573,08 tỷ đồng, chiếm 63,35%, tăng 6,82%.

4. Hoạt động xuất - nhập khẩu 

Tình hình hoạt động xuất nhập khẩu, dịch vụ và hoạt động trao đổi thương mại biên giới 9 tháng đầu năm 2023 đã dần đi vào ổn định sau 3 năm bị hạn chế do dịch Covid 19. Cửa khẩu quốc gia Huổi Puốc đã bắt đầu hoạt động thông quan, cửa khẩu phụ, lối mở biên giới với Lào đã được hoạt động trao đổi cư dân biên giới trở lại. Không có tình trạng ùn tắc hàng hóa tại các cửa khẩu trên địa bàn tỉnh.

Dự ước tổng kim ngạch xuất nhập khẩu quý III năm 2023 đạt 13,38 triệu USD, giảm 63,33% so với cùng kỳ năm trước. 

Tính chung 9 tháng năm 2023 ước đạt 58,02 triệu USD, giảm 28,63% so với cùng kỳ năm trước, đạt 48,35% kế hoạch năm. Trong đó: Kim ngạch xuất khẩu ước đạt 42,85 triệu USD, giảm 26,45% so với cùng kỳ năm trước, đạt 53,56% kế hoạch năm; mặt hàng xuất khẩu chủ yếu là hàng nông sản, hàng hóa tiêu dùng trong nước và vật liệu xây dựng (sắt thép xây dựng…). Kim ngạch nhập khẩu ước đạt 15,17 triệu USD, giảm 31,15% so với 9 tháng năm 2022, đạt 37,93% kế hoạch năm; mặt hàng nhập khẩu chủ yếu là hàng nông lâm thổ sản, máy móc thiết bị phục vụ thủy điện.

5. Giá cả

a) Chỉ số giá tiêu dùng (CPI)

Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 9/2023 tăng 0,48% so với tháng trước, so với cùng kỳ năm trước tăng 0,99% và so kỳ gốc năm 2019 tăng 10,49%. Bình quân quý III/2023 CPI tăng 1,78% so với cùng kỳ năm trước. Bình quân 9 tháng đầu năm 2023, CPI tăng 0,91% so với cùng kỳ năm trước.

Trong mức tăng 0,48% của CPI tháng 9/2023 so với tháng trước có 08 nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá tăng, 01 nhóm hàng hoá có chỉ số giá giảm và 02 nhóm có chỉ số bình ổn.

(1) Tám nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá tăng gồm: Nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 0,15% (lương thực tăng 0,33%, thực phẩm tăng 0,16%, ăn uống ngoài gia đình tăng 0,04%); Nhóm may mặc, mũ nón, giày dép tăng 0,26%; Nhóm nhà ở, điện nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 0,4%; Nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,15%; Nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,02%; Nhóm giao thông tăng 1,55%; Nhóm giáo dục tăng 3,23%; Nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,02%.

(2) Một nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá giảm là nhóm văn hóa, giải trí và du lịch giảm 0,07%. 

(3) Hai nhóm có chỉ số giá ổn định so với tháng trước gồm: Nhóm đồ uống thuốc lá và nhóm bưu chính viễn thông 

CPI bình quân quý III/2023 tăng 1,78% so với cùng kỳ năm trước, trong đó có 09 nhóm hàng có chỉ số tăng: Hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 0,57%; đồ uống và thuốc lá tăng 0,67%; may mặc, mũ nón, giầy dép tăng 1,65%; nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 0,11%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,23%; thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,15%; giáo dục tăng 49,81%; văn hóa giải trí và du lịch tăng 0,76%; hàng hóa và dịch vụ khác tăng 2,7%. Có 02 nhóm hàng hóa có chỉ số giá tiêu dùng giảm: Giao thông giảm 3,93% và nhóm bưu chính viễn thông giảm 0,13% so với cùng ký năm trước. 

CPI bình quân 9 tháng đầu năm 2023 tăng 0,91% so với bình quân cùng kỳ năm 2022, trong đó có 07 nhóm hàng có chỉ số giá tăng: Hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 1,31%; đồ uống và thuốc lá tăng 0,80%; may mặc, mũ nón, giầy dép tăng 1,29%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,44%; thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,15%; giáo dục tăng 69,28%; văn hóa giải trí và du lịch tăng 4,52%. Có 04 nhóm có chỉ số giảm: Nhà ở, điện, nước, chất đốt và VLXD giảm 6,45%; giao thông giảm 6,18%; bưu chính viễn thông giảm 0,13%; hàng hóa và dịch vụ khác giảm 7,53%. 

CPI bình quân quý III và 9 tháng đầu năm nay tăng so với cùng kỳ năm trước do một số nguyên nhân chủ yếu sau:

(1). Tết Nguyên đán diễn ra vào tháng 01, nhu cầu tiêu thụ lớn về các mặt hàng như thực phẩm để làm thịt khô, lạp xưởng tăng cao, thêm vào đó là những trận mưa đá trong tháng 3, mưa lớn kéo dài đầu tháng 8 làm cho một số loại cây rau giống bị hỏng làm cho người dân phải gieo trồng lại, dịch bệnh nhiệt thán, tụ huyết trùng, dịch tả lợn châu phi xuất hiện trên địa bàn tỉnh làm chết nhiều gia súc, gia cầm dẫn tới chỉ số giá nhóm lương thực, thực phẩm 9 tháng đầu năm tăng.

(2). 9 tháng đầu năm trên địa bàn tỉnh diễn ra nhiều các hoạt động, lễ hội, các kỳ nghỉ lễ diễn ra dài ngày nhu cầu đi chơi, du lịch của người dân tăng thêm vào đó các mặt hàng thực phẩm tăng đã tác động làm chỉ số giá nhóm ăn uống ngoài gia đình 9 tháng đầu năm 2023 tăng.

(3). Giá các loại quần áo may sẵn, thiết bị và đồ dùng trong gia đình tăng cao trong dịp cuối năm và giáp Tết. Cùng với đó thời tiết đầu quý II nắng nóng do ảnh hưởng của hiện tượng El Nino dẫn tới nhu cầu sử dụng các thiết bị làm mát như điều hòa, tủ lạnh, quạt điện...cũng tăng đáng kể so với cùng kỳ năm trước.

(4). Ngày 04/5/2023 Tập đoàn Điện lực Việt Nam điều chỉnh mức giá bán lẻ điện bình quân đã tác động làm chỉ số giá điện tăng cao so với cùng kỳ năm trước.

(5). Chỉ số giá nhóm thuốc và dịch vụ y tế 9 tháng đầu năm tăng 0,15% so với cùng kỳ năm trước do giá thuốc nhập vào tại các cửa hàng liên tục tăng vào những tháng đầu năm và hạ nhiệt dần vào những tháng của quý 2 và nhu cầu của người tiêu dùng tăng.

(6). Tiếp tục thực hiện lộ trình tăng học phí theo Nghị định số 81/2021/NĐ-CP ngày 27/8/2021 của Chính phủ, các Trường áp dụng tăng mức thu học phí hệ đào tạo chính quy Trung cấp và Cao đẳng trong năm học 2022-2023 đã làm cho chỉ số giá nhóm dịch vụ giáo dục tăng so với cùng kỳ năm trước.

(7). Học sinh khai giảng vào 05/9/2023 nên nhu cầu mua sắm một số mặt hàng như quần áo, giày, dép, sách vở, dịch vụ may mặc, dịch vụ giày, dép và văn phòng phẩm.

Bên cạnh đó, có một số yếu tố góp phần kiềm chế tốc độ tăng CPI quý III và 9 tháng đầu năm 2023:

(1). Giá các mặt hàng trong nhóm lương thực giảm so với cùng kỳ năm trước do một lượng lớn gạo được các tiểu thương nhập từ dưới xuôi hoặc bên Lào về nhiều đã tác động làm giảm giá các mặt hàng gạo.

(2). Giá sắt thép giảm do chịu ảnh hưởng từ giá sắt thép thế giới. Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam có nhiều đợt điều chỉnh giá bán lẻ dầu, giá dầu bình quân giảm 3.023 đồng/lít so với cùng kỳ năm trước dẫn tới chỉ số giá nhóm nhà ở, điện, nước, chất đốt và VLXD giảm so với cùng kỳ năm trước.

(3). Trong 9 tháng đầu năm do ảnh hưởng các đợt điều chỉnh Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam giá bán lẻ xăng bình quân giảm 4.733 đồng/ lít so với cùng kỳ năm trước dẫn tới chỉ số giá nhóm giao thông giảm so với cùng kỳ năm trước.

(4). Để kích cầu tiêu các hãng điện thoại liên tục có nhiều đợt khuyến mại giảm giá bán là nguyên nhân chủ yếu làm cho giá mặt hàng điện thoại thông minh 9 tháng đầu năm 2023 giảm so với cùng kỳ.

* Chỉ số giá vàng và chỉ số giá đô la Mỹ 

Chỉ số giá vàng tháng 9 tăng 1,59% so với tháng trước, tăng 2,56% so với cùng kỳ năm trước, tăng 76,01% so với kỳ gốc 2019; bình quân quý III năm 2023 tăng 0,42%. Tính chung 9 tháng đầu năm 2023 tăng 0,8% so với cùng kỳ năm trước.

Chỉ số giá đô la Mỹ tháng 9 tăng 0,77% so với tháng trước, tăng 1,76% so với cùng kỳ năm trước, tăng 3,12% so với kỳ gốc 2019; bình quân quý III năm 2023 tăng 1,5%. Tính chung 9 tháng đầu năm 2023 tăng 2,36% so với cùng kỳ năm trước.

b) Chỉ số giá sản xuất 

Chỉ số giá sản xuất sản phẩm nông, lâm nghiệp và thủy sản quý III/2023 Chỉ số giá sản xuất hàng nông, lâm nghiệp và thủy sản trên địa bàn tỉnh Điện Biên quý III năm 2023 tăng 0,58% so với quý trước, tăng 0,99% so với cùng quý năm trước. Trong 3 nhóm sản phẩm chính thì 2 nhóm có chỉ số giá tăng và 1 nhóm chỉ số giá giảm, cụ thể: Sản phẩm nông nghiệp tăng 0,63% và tăng 0,94%; sản phẩm lâm nghiệp và dịch vụ có liên quan tăng 0,46% và tăng 1,93%; sản phẩm thủy sản nuôi trồng, khai thác giảm 0,42% và tăng 0,52%.

Tính chung 9 tháng năm 2023 chỉ số giá sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 0,94% so với cùng kỳ 2022, trong đó: Nông nghiệp và dịch vụ có liên quan tăng 0,84%; sản phẩm lâm nghiệp và dịch vụ có liên quan tăng 1,99%; Sản phẩm thủy sản khai thác, nuôi trồng tăng 1,27%.

Chỉ số giá sản xuất sản phẩm công nghiệp quý III/2023 tăng 0,12% so với quý trước, tăng 0,52% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: 3 nhóm có chỉ số tăng là sản phẩm khai khoáng tăng 0,49% và tăng 0,99%; nhóm điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí tăng 1,67% và tăng 2,65%; nhóm Nước tự nhiên khai thác; dịch vụ quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 0,35% và tăng 0,53%. 1 nhóm còn lại có chỉ số giảm: Sản phẩm công nghiệp chế biến, chế tạo giảm 0,21%  và tăng 0,08%;

Chỉ số giá nguyên nhiên vật liệu dùng cho sản xuất quý III/2023 tăng 0,23% so với quý trước, giảm 1,97% so với cùng kỳ năm trước. Nguyên nhân, (1) trong quý thời tiết thay đổi nắng mưa thất thường ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình sản xuất của người dân; (2) trong quý Tổng công ty xăng dầu Việt Nam đã điều chỉnh giá bán lẻ xăng dầu 7 lần (6 lần tăng, 1 lần giảm); (3) trong quý là thời gian gieo trồng một số loại cây trồng; (4) giá sắt thép giảm chịu ảnh hưởng từ giá sắt thép trên thế giới. Nhóm nguyên nhiên vật liệu dùng cho sản xuất công nghiệp chế biến chế tạo tăng 0,90%; nhóm nguyên nhiên liệu chủ yếu dùng cho xây dựng tăng 0,95%, nhóm nguyên nhiên vật liệu dùng cho sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 2,13%.

III. MỘT SỐ VẤN ĐỀ XÃ HỘI

1. Lao động, việc làm 

9 tháng năm 2023 lực lượng lao động của tỉnh cơ bản có việc làm ổn định, người lao động có nhiều lựa chọn công việc cho phù hợp với mình. Các Doanh nghiệp có quy mô lớn đã sử dụng lao động ở mức nhiều hơn, nhu cầu tuyển dụng người lao động của các doanh nghiệp trong và ngoài tỉnh tăng lên đáng kể, làm cho thị trường lao động và công tác đào tạo nghề đều tăng so với cùng kỳ năm trước.

Dự ước lực lượng lao động của tỉnh trong 9 tháng năm 2023 có 343.240 người, trong đó lao động đang làm việc 341.970 người. 

Quý III năm 2023 toàn tỉnh giải quyết việc làm mới cho 2.234 lao động. Dự ước thực hiện 9 tháng năm 2023, toàn tỉnh giải quyết việc làm mới cho 8.069 lao động, bao gồm: Thông qua Quỹ quốc gia về việc làm 1.616 lao động; cung ứng lao động cho các doanh nghiệp ngoài tỉnh 3.431 lao động; xuất khẩu lao động 218 lao động; thông qua các chương trình phát triển kinh tế - xã hội khác và tự tạo việc làm 2.804 lao động.

Tính chung 9 tháng năm 2023 tuyển mới đào tạo nghề cho 8.315 người, chia theo cấp trình độ: Cao đẳng 177 người, trung cấp 842 người, sơ cấp 4.532 người, và đào tạo dưới 3 tháng 2.764 người.

2. Đời sống dân cư và bảo đảm an sinh xã hội

a)  Đời sống cán bộ, công chức, viên chức, công nhân, người lao động

Đời sống cán bộ, công nhân viên chức và người lao động hưởng lương: Tình hình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Điện Biên 9 tháng năm 2023, nhìn chung vẫn giữ được ổn định. Uớc 9 tháng năm 2023, thu nhập người lao động trong khu vực nhà nước đạt 8,02 triệu đồng/người/tháng, khu vực doanh nghiệp nhà nước là 6,82 triệu đồng/người/tháng, khu vực doanh nghiệp ngoài Nhà nước đạt 1,795 triệu đồng/người/tháng.

Đời sống dân cư nông thôn: 9 tháng đầu năm 2023, đời sống dân cư khu vực nông thôn chịu ảnh hưởng của dịch bệnh trong chăn nuôi và chịu ảnh hưởng của thiên tai. Tuy nhiên được sự quan tâm chỉ đạo hỗ trợ động viên kịp thời của các cấp chính quyền đã khắc phục nhanh những khó khăn đời sống dân cư ở khu vực nông thôn đã được cải thiện so với năm trước. Chính sách của Đảng và Nhà nước về công tác xây dựng nông thôn mới đã và đang phát huy tác dụng tích cực, cơ sở hạ tầng có bước phát triển, tạo điều kiện cho nhân dân khu vực nông thôn nâng cao mức sống, giúp cho tình hình an ninh, chính trị trên địa bàn tỉnh được ổn định.

b) Công tác an sinh xã hội

Đối với người có công

Nhân dịp tết Nguyên đán Quý Mão đã tổ chức thăm hỏi, tặng quà cho gia đình người có công và thân nhân 3.930 suất quà, trị giá 1.572,9 triệu đồng. (UBND tỉnh đã thăm hỏi, tặng quà cho 55 người có công và thân nhân tiêu biểu trị giá 35,95 triệu đồng; trao 1.388 suất quà của Chủ tịch nước trị giá 420,9 triệu đồng; quà của các huyện, thị xã, thành phố 1.351 suất, trị giá 605,45 triệu đồng; quà từ ngân sách cấp xã 600 suất, trị giá 202,2 triệu đồng; quà của các tổ chức cá nhân 536 suất, trị giá 308 triệu đồng).

Thực hiện chính sách đền ơn đáp nghĩa đối với các đối tượng chính sách, người có công trong 9 tháng năm 2023 tỉnh Điện Biên đã đã sửa chữa và xây mới 14 nhà tình thương, trị giá 510 triệu đồng; đã xây dựng, sửa chữa và bàn giao 1.861 nhà đại đoàn kết trị giá 93.040 triệu đồng.

Bảo trợ xã hội 

Toàn tỉnh đã thực hiện tiếp nhận hỗ trợ, tặng 47.525 suất quà tết hộ nghèo, đối tượng bảo trợ xã hội người cao tuổi, trẻ em có hoàn cảnh khó khăn và các đối tượng xã hội khác, kinh phí thực hiện bằng 18.230,79 triệu đồng (quà cho hộ nghèo và cận nghèo là 37.384 suất, trị giá 14.057,5 triệu đồng ; quà cho các đối tượng bảo trợ xã hội là 438 suất, trị giá 176 triệu đồng; quà cho người cao tuổi là 1.341 suất, trị giá 915 triệu; quà cho các đối tượng trẻ em, người lao động và các đối tượng khác là 8.362 suất, trị giá 3.082,2 triệu đồng). 

Về cấp phát thẻ Bảo hiểm y tế tính đến ngày 15 tháng 9 đã phát miễn phí cho 447.699 thẻ (trẻ em dưới 6 tuổi 77.001 thẻ,  bảo trợ xã hội và cự chiến binh 8.840 thẻ, người nghèo 178.769 thẻ, cận nghèo là 5.173 thẻ và người dân tộc nằm trong vùng đặc biệt khó khăn là 178.036 thẻ).

c) Tình hình thiếu đói trong dân cư 

Trong tháng, đời sống nhân dân ổn định không xẩy ra thiếu đói. Trong 8 tháng năm 2023 trên địa bàn tỉnh đã xảy ra tình trạng thiếu đói giáp hạt với 9.973 hộ (46.701 khẩu), so cùng kỳ năm trước số hộ thiếu đói giảm 21,73% (số khẩu thiếu đói giảm 21,08%). Số gạo đã được hỗ trợ thiếu đói dịp tết Nguyên đán là 313,4 tấn cho 4.744 hộ với 20.893 khẩu. 

d) Công tác giảm nghèo

Ngành Lao động - Thương binh và Xã hội tham mưu trình UBND tỉnh ban hành các văn bản chỉ đạo, triển khai công tác giảm nghèo, phê duyệt kết quả tổng rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo năm 2022 theo chuẩn nghèo đa chiều giai đoạn 2022 - 2025 trên địa bàn tỉnh Điện Biên; tỷ lệ nghèo đa chiều trên địa bàn toàn tỉnh 39,98% tương ứng với 54.947 hộ, trong đó: Tỷ lệ hộ nghèo 30,35% tương ứng với 41.706 hộ; tỷ lệ hộ cận nghèo 9,63% tương ứng với 13.241 hộ.

3. Giáo dục, đào tạo 

a) Kết quả năm học 2022-2023

Năm học 2022-2023, Toàn tỉnh có 481 trường/trung tâm với 7.400 lớp và 206.683 học sinh (trong đó Mầm non: 168 trường, 2.477 lớp/nhóm trẻ và 58.877 trẻ; Tiểu học: 140 trường, 2.902 lớp và 76.662 học sinh; THCS: 122 trường, 1.427 lớp và 49.390 học sinh; THPT: 33 trường, 534 lớp và 20.005 học sinh. Trung tâm GDNN-GDTX có 10 trung tâm với 31 lớp, 1.011 học viên; 01 trung tâm Ngoại ngữ - Tin học; 05 trung tâm Ngoại ngữ; 01 trung tâm Hỗ trợ phát triển giáo dục hòa nhập). Trường Cao đẳng Sư phạm có quy mô đào tạo 645 sinh viên chính quy với 22 lớp.

Số lượng nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục có trình độ đạt chuẩn và trên chuẩn tiếp tục tăng, cơ bản đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục. Ngành Giáo dục và Đào tạo quản lý 15.616 công chức, viên chức và người lao động, bao gồm: 1.263 cán bộ quản lý; 11.960 công chức, giáo viên; 2.277 nhân viên).

Toàn ngành có 7.19 phòng học, 1.395 phòng học chức năng, 3.109 phòng nội trú học sinh, 1.725 phòng công vụ giáo viên.

 Kết quả chất lượng giáo dục: Tỷ lệ huy động trẻ từ 3 tháng đến 36 tháng tuổi ra lớp đạt 46,7%, vượt 1,3% kế hoạch; tỷ lệ huy động trẻ 3-5 tuổi học mẫu giáo đạt 99,7%, vượt 0,1% kế hoạch; tỷ lệ huy động trẻ 5 tuổi đến lớp mẫu giáo đạt 99,97%, vượt 0,07% kế hoạch; tỷ lệ huy động trẻ 6 tuổi vào lớp 1 đạt 99,97%, vượt 0,07% kế hoạch; tỷ lệ huy động trẻ 6-10 tuổi đi học tiểu học đạt 99,9%, đạt kế hoạch; tỷ lệ huy động trẻ 11 tuổi vào lớp 6 đạt 98,0%, vượt 0,03% kế hoạch; tỷ lệ huy động trẻ 11-14 tuổi học THCS đạt 97,3%, vượt 0,2% kế hoạch; tỷ lệ huy động trẻ 15-18 tuổi học THPT và tương đương đạt 72,1%, vượt 0,2% kế hoạch; tỷ lệ huy động trẻ 15 tuổi học THPT đạt 73,9%, thấp hơn 1,4% so với kế hoạch.

Tính đến thời điểm 10/8/2022, tỷ lệ học sinh tốt nghiệp năm học 2022-2023 như sau: Học sinh tiểu học hoàn thành chương trình15.828 học sinh đạt 99,93%; học sinh THPT 10.476 học sinh đạt 99,81%; học sinh THPT 5846 học sinh đạt 99,81%; học sinh bổ túc THPT 193 học sinh đạt 97,47%. 

b). Tình hình năm học mới 2023-2024

Năm học 2023-2024, quy mô trường lớp tiếp tục được rà soát, sắp xếp theo hướng giảm đầu mối, phù hợp với tình hình thực tế của địa phương và của ngành giáo dục, góp phần tiết kiệm biên chế và ngân sách chi cho giáo dục. Công tác huy động dân số ra lớp, duy trì tỉ lệ học sinh đi học chuyên cần, giảm tỉ lệ học sinh bỏ học thực hiện đạt và vượt chỉ tiêu UBND tỉnh giao. 

Dự ước năm học 2023-2024, toàn Ngành Giáo dục và Đào tạo có có 483 trường, trung tâm  (169 trường mầm non, 296 trường phổ thông, 17 trung tâm và 01 trường cao đẳng) với 7.404 lớp và 208.106 học sinh, sinh viên, học viên. So với cùng kỳ năm học trước tăng 02 trường (483/481- trường Mầm non Hoa Ban và trường PTDTBT THCS Nậm Chua trực thuộc PGD Nậm Pồ); tăng 18 lớp và tăng 550 học sinh, sinh viên. 

4. Y tế

a) Tình hình dịch bệnh và công tác phòng, chống dịch 

Tình hình dịch bệnh

Dịch bệnh COVID-19: Tình hình dịch COVID-19 trên địa bàn tỉnh cơ bản vẫn được kiểm soát. Từ ngày 15/8/2023 đến 17h ngày 14/9/2023 trên địa bàn toàn tỉnh ghi nhận 40 bệnh nhân mắc COVID-19, tử vong 0. Tính từ ngày 01/01/2023 đến 17h ngày 14/9/2023, trên địa bàn toàn tỉnh ghi nhận 718 bệnh nhân mắc COVID-19, điều trị khỏi và xuất viện 716 bệnh nhân, không có bệnh nhân tử vong, hiện đang điều trị 2 bệnh nhân mắc COVID-19.

Các bệnh dịch khác: Trong tháng xảy ra 01 ổ dịch Bạch hầu với 03 ca mắc, tử vong 0. Tính từ ngày 01/01/2023 đến ngày 12/9/2023 trên địa bàn toàn tỉnh xảy ra 11 ổ dịch với số ca mắc 353 ca, tử vong 01; điều trị khỏi 349/353 ca, đang điều trị 03 ca mắc Bạch hầu tại xã Huổi Mí, huyện Mường Chà, hiện tại 03 bệnh nhân đã ổn định. Các ổ dịch trên đã được điều tra, xác minh, chẩn đoán và triển khai các biện pháp xử lý kịp thời. 

Tình hình mắc các bệnh truyền nhiễm gây dịch: Trong 8 tháng đầu năm 2023, hầu hết số ca mắc đều giảm so với cùng kỳ. Tuy nhiên, một số bệnh có ca mắc tăng so với cùng kỳ, như: Lỵ trực trùng, Lỵ amip; Tiêu chảy, Thuỷ đậu, Cúm, Viêm não vi rút, Sởi, Than và đặc biệt là bệnh Dại mắc 06 ca/tử vong 6 ca. 

Công tác phòng chống dịch: Ngành Y tế tiếp tục phối hợp với các ngành, các địa phương tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến, quán triệt, triển khai đầy đủ và có hiệu quả các hoạt động về phòng, chống dịch trên địa bàn. Tăng cường giám sát các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm và các bệnh truyền nhiễm gây dịch khác, đặc biệt là các bệnh lây qua đường tiêu hóa và các dịch bệnh mùa hè; duy trì hoạt động của đội cơ động chống dịch; chuẩn bị đủ thuốc, hóa chất, vật tư để chủ động đối phó với dịch. 

b) Tình hình lây nhiễm HIV/AIDS 

Tình hình nhiễm HIV/AIDS vẫn diễn biến phức tạp, tính đến 31/8/2023, có 120/129 xã, phường, thị trấn thuộc 10/10 huyện, thị xã, thành phố có người nhiễm HIV. Tổng số tích lũy toàn tỉnh có 7.7461 ca nhiễm HIV (12 ca mắc mới được phát hiện trong tháng); tích lũy số ca AIDS là 5.496 (không có ca nhiễm HIV chuyển giai đoạn AIDS mới trong tháng); tử vong do AIDS lũy tích 4.124 ca (04 ca tử vong mới trong tháng). Tổng số ca nhiễm HIV được quản lý là 3.413 chiếm 93,7% người nhiễm HIV trên địa bàn. 

c) Tình hình vệ sinh an toàn thực phẩm 

Ngành Y tế chỉ đạo các đơn vị tăng cường công tác truyền thông, kiểm tra, giám sát VSATTP tại các cơ sở sản xuất chế biến, kinh doanh thực phẩm và dịch vụ ăn uống trên địa bàn toàn tỉnh. Đặc biệt tại các sự kiện chính trị lớn của tỉnh.

Công tác giám sát an toàn thực phẩm: Tuyến tỉnh thành lập 01 tổ giám sát ATTP đối với 05 cơ sở thực phẩm. Kết quả: 100% cơ sở đáp ứng các yêu cầu về điều kiện đảm bảo ATTP; Tuyến huyện thực hiện giám sát định kỳ đối với 77 cơ sở. Kết quả: 100% cơ sở đạt yêu cầu về ATTP.

Tiếp tục thực hiện việc kiểm tra và cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện vệ sinh an toàn thực phẩm cho các cơ sở sản xuất, chế biến và kinh doanh thực phẩm đủ điều kiện trên địa bàn toàn tỉnh. Lũy tích cấp giấy chứng nhận hoặc ký cam kết đảm bảo an toàn thực phẩm trên địa bàn toàn tỉnh đạt 97%.  

Trong tháng 9, trên địa bàn tỉnh xảy ra 5 vụ ngộ độc thực phẩm với 46 ca mắc (không có tử vong) và 01 ca mắc đơn lẻ. Nguyên nhân gây ngộ độc thực phẩm do nghi ngờ ăn bún tươi. Lũy tích 9 tháng đầu năm 2023, trên địa bàn tỉnh xảy ra 06 vụ ngộ độc thực phẩm với 71 ca mắc, 0 có ca tử vong (cùng kỳ năm 2022, trên địa bàn toàn tỉnh xảy ra 03 vụ ngộ độc thực phẩm với 09 ca mắc, tử vong 0).

5. Hoạt động văn hóa, thông tin, Thể dục thể thao và du lịch

a) Hoạt động quản lý Nhà nước và văn hóa, văn nghệ

Hoạt động Tuyên truyền: Công tác tuyên truyền, cổ động các hoạt động, sự kiện của tỉnh, của đất nước được thực hiện tập trung ở khu vực trung tâm các huyện, thị xã, thành phố và ở các đơn vị cơ sở bằng nhiều hình thức phong phú: Trung tâm Văn hóa, Điện ảnh sáng tác 06 tranh mẫu; xuất bản 04 số với 800 cuốn Văn hóa, Thể thao và Du lịch gửi cơ sở tuyên truyền; dựng 32 phóng sự và video clip tuyên truyền; in, căng treo 830 băng rôn, khẩu hiệu, cờ phướn tuyên truyền, dựng 58 cụm cổ động và pano. Các đội tuyên truyền tại các huyện, thị xã, thành phố: Dự ước xây dựng 34 chương trình mới, thực hiện 460 buổi tuyên truyền phục vụ 223 nghìn lượt người xem; thực hiện căng treo 9.700 cờ phướn, băng rôn, khẩu hiệu. 

Hoạt động văn hóa, nghệ thuật quần chúng: Tổ chức thành công Lễ hội Hoa Ban năm 2023 và Ngày hội Văn hóa, Thể thao và Du lịch các dân tộc tỉnh Điện Biên lần thứ VII. Trung tâm Văn hóa, Điện ảnh tổ chức 34 hoạt động văn hóa, văn nghệ đạt 283,3% kế hoạch năm; thực hiện 30 hoạt động văn hóa, văn nghệ tại Sân hành lễ Tượng đài Chiến thắng Điện Biên Phủ; mở 04 lớp năng khiếu nghệ thuật; tham gia 01 hội thi, hội diễn khu vực và toàn quốc. Toàn tỉnh có 1.208 đội văn nghệ quần chúng, dự ước tổ chức 1.780 buổi biểu diễn, thu hút 245 nghìn lượt người xem. 

Hoạt động nghệ thuật chuyên nghiệp: Đoàn nghệ thuật tổ chức dàn dựng, tập luyện, biểu diễn 05 chương trình nghệ thuật; 114 buổi biểu diễn phục vụ nhiệm vụ chính trị, đạt 87,7% kế hoạch năm. Trong đó tiêu biểu là chương trình nghệ thuật mừng Xuân Quý Mão năm 2023; chào mừng kỷ niệm 69 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ; tổ chức biểu diễn chương trình nghệ thuật chào mừng Kỷ niệm 78 năm Cách mạng Tháng 8 thành công và Quốc khánh 02/9.

Hoạt động Phát hành phim, chiếu bóng và phát hành xuất bản phẩm: Tổ chức 02 buổi chiếu phim thực hiện chính trị, 14 buổi chiếu phim tại Rạp. Trong tháng phát hành xuất bản phẩm được trên 131 bản. Cộng dồn 9 tháng 2023, tổ chức 43 buổi chiếu phim phục vụ nhiệm vụ chính trị; 118 buổi chiếu phim tại Rạp; thực hiện 865 buổi chiếu bóng lưu động tại vùng cao, vùng đồng bào dân tộc thiểu số; Dịch, lồng tiếng 04 phim bằng tiếng dân tộc Thái, Mông; sản xuất 01 phim phóng sự phục vụ vùng cao. Phát hành 11,34 nghìn bản xuất bản phẩm.

 Hoạt động thư viện: Trong tháng, đã phục vụ 6.500 lượt bạn đọc; 5.000 lượt độc giả truy cập CSDL thư viện điện tử, 50 người được cấp thẻ thư viện. Dự ước 9 tháng năm 2023 hệ thống thư viện công cộng đã nhập bổ sung 10.107 bản sách; thực hiện cấp thẻ cho trên 5 nghìn độc giả; phục vụ trên 237,9 nghìn lượt độc giả; có trên 483,4 nghìn lượt tài nguyên thông tin được phục vụ.

Hoạt động phát huy giá trị di sản văn hóa: Trong tháng, hai bảo tàng và các điểm di tích đón 45.430 lượt khách đến tham quan, trong đó có 320 lượt khách nước ngoài. Lũy kế 9 tháng năm 2023 đón 398.132 lượt khách tham quan, trong đó 5.282 lượt khách nước ngoài.

b) Lĩnh vực thể dục thể thao

Phong trào TDTT quần chúng Phong trào TDTT quần chúng tiếp tục được duy trì và phát triển trên địa bàn tỉnh; Cuộc vận động “Toàn dân rèn luyện thân thể theo gương Bác Hồ vĩ đại” tiếp tục nhận được sự tham gia hưởng ứng của Nhân dân. Dự ước đến hết tháng 9 năm 2023, toàn tỉnh có tỷ lệ số người tập luyện TDTT thường xuyên đạt 32,7% trên tổng số dân toàn tỉnh; tỷ lệ hộ gia đình thể thao đạt 21,7% trên tổng số hộ gia đình toàn tỉnh; có 428 Câu lạc bộ TDTT cơ sở.

Toàn tỉnh tổ chức được 310 giải thi đấu, trong đó cấp toàn quốc 03 giải; cấp tỉnh 08 giải; cấp huyện, ngành 55 giải; cấp xã 180 giải; các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp, trường học, đơn vị lực lượng vũ trang và các tổ chức khác tổ chức 64 giải. Tổ chức 07 đợt tập huấn về công tác trọng tài điều hành các giải thể thao và Đại hội TDTT cấp ngành và cấp tỉnh cho trên 182 học viên.

Thể thao thành tích cao, phối hợp tổ chức thành công 03 giải thể thao khu vực và toàn quốc ; tổ chức đào tạo, huấn luyện 24 vận động viên thể thao thành tích cao; dự ước thành lập đoàn vận động viên, huấn luyện viên tham gia 13 giải thi đấu khu vực và toàn quốc đạt 56 huy chương các loại, trong đó có 43 huy chương từ các giải thể thao thành tích cao; có 01 vận động viên đạt kiện tướng và 06 vận động viên đạt cấp I quốc gia, có 01 vận động viên tham gia đội tuyển Quốc gia Việt Nam, dự giải Vô địch Karate Đông Nam Á tại Philippin đạt 01 HCV, 01 HCĐ; tham gia Seagame 32 tại Campuchia đạt 01 HCV.

c) Lĩnh vực du lịch

Ngành Văn hóa Thể thao và Du lịch đã Hướng dẫn các đơn vị kinh doanh du lịch trên địa bàn tỉnh chuẩn bị tốt các điều kiện phục vụ khách du lịch trong dịp Lễ, Tết; hướng dẫn về điều kiện, trình tự, thủ tục, hồ sơ công nhận điểm du lịch, khu du lịch cấp tỉnh. Triển khai các nhiệm vụ tổ chức Tuần Văn hóa - Du lịch tỉnh Tây Bắc và Thành phố Hồ Chí Minh tại tỉnh Luông-Pha-Bang; tổ chức hoạt động trưng bày giới thiệu quảng bá sản phẩm văn hoá du lịch trong khuôn khổ Lễ hội hoa ban; tổ chức Cuộc thi ẩm thực “Hương sắc Điện Biên” năm 2023; Thiết kế, lắp đặt sơ đồ bố trí các hoạt động, cổng, gian hàng trưng bày; sản xuất ấn phẩm phục vụ công tác quảng bá, xúc tiến du lịch ; thiết kế, thay 06 pano giới thiệu du lịch Điện Biên. Tham gia quảng bá, xúc tiến du lịch tỉnh Điện Biên tại các tỉnh, thành phố và các sự kiện chính trị . 

Dự ước 9 tháng năm 2023 lượng khách du lịch đạt 790,78 nghìn lượt, tăng 52,6% so với cùng kỳ năm 2022. Trong đó: khách quốc tế đạt 6,118 nghìn lượt, tăng 239,7% so với cùng kỳ năm 2022. Tổng doanh thu từ hoạt động du lịch đạt 1.183,3 tỷ đồng, tăng 67,5% so với cùng kỳ năm 2022; số ngày lưu trú bình quân của khách du lịch ước đạt 2,6 ngày.

6. Tai nạn giao thông, cháy nổ, vi phạm môi trường

a) Tai nạn giao thông

Từ 15/7/2023 đến 14/8/2023, trên địa bàn tỉnh xảy ra 5 vụ tai nạn giao thông làm bị thương 4 người, không có người chết. Nguyên nhân do người điều khiển vi phạm tốc độ khi điều khiển phương tiện, đi sai làn đường, phần đường, vượt sai quy định.

Lũy kế từ 15/11/2022 đến 14/8/2023 trên địa bàn tỉnh Điện Biên đã xảy 19 vụ tai nạn và va chạm giao thông, làm 8 người chết, 19 người bị thương. Số vụ tai nạn bằng năm trước, số người chết giảm 52,94%, số người bị thương tăng 72,73%. Nguyên nhân do người điều khiển phương tiện giao thông không chú ý quan sát, người đi bộ không đi sát lề đường bên phải; người điều khiển xe ô tô không đi đúng làn đường quy định; vượt sai quy định và sử dụng rượu, bia, chất kích thích có cồn.

b) Cháy nổ

Từ 15/7/2023 đến 14/8/2023 trên địa bàn tỉnh không xảy ra cháy nổ. Lũy kế từ 15/11/2022 đến 14/8/2023 trên địa bàn tỉnh Điện Biên xẩy ra 13 vụ cháy (nhà ở riêng lẻ, phòng làm việc, phương tiện giao thông, lán nương, thảm thực vật) làm 1 người chết và 2 người bị thương, thiệt hại ước tính 3,84 tỷ đồng. 

c) Vi phạm môi trường

Trong tháng 8/2023, cơ quan chức năng đã phát hiện 31 vụ vi phạm môi trường, số vụ xử lý 29 vụ với tổng số tiền phạt 144,37 triệu đồng. Tính chung 9 tháng đầu năm 2023 đã phát hiện 345 vụ vi phạm môi trường, tăng 15,38%, so cùng kỳ năm trước, số vụ được xử lý 258 vụ, tăng 4,03% với tổng số tiền phạt 1.558,82 triệu đồng, tăng 69,33%. Các vụ vi phạm môi trường chủ yếu là phá rừng làm nương, tàng trữ, mua bán, chế biến lâm sản trái pháp luật. 

7. Thiệt hại do thiên tai 

Thiệt hại do thiên tai trong tháng Chín chủ yếu do ảnh hưởng của 3 đợt mưa lũ, sạt lở kéo dài . Làm 157 ha lúa bị vùi lấp và cuốn trôi; 01 công trình thủy lơi bị hư hỏng; 30m đường bị hư hỏng (trượt sạt mất đường); có 0,1 ha nuôi cá bị thiệt hại; có 3 lưới điện trung áp và 3 lưới điện hạ áp bị sạt lở móng, hư hỏng; tổng giá trị thiệt hại về tài sản do thiên tai gây ra trong tháng ước tính 5,88 tỷ đồng, gấp 16,3 lần so cùng kỳ năm trước 

Tính chung 9 tháng năm 2023 thiên tai đã làm 4 người chết và 1 người mất tích;  937 ngôi nhà bị sập đổ, hư hỏng; 359,52 ha lúa và 910,3 ha hoa màu bị hư hỏng; 19 con gia súc, 1.483 con  gia cầm bị chết, cuốn trôi và một số thiệt hại khác. Tổng giá trị thiệt hại ước tính là 70,13 tỷ đồng, giảm 58,48% so với cùng kỳ năm 2022.

Khái quát lại, kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh Điện Biên 9 tháng năm 2023 tương đối ổn định, nhờ có sự chỉ đạo quyết liệt của Tỉnh ủy, HĐND và UBND tỉnh; sự vào cuộc quyết tâm của các Sở, ban ngành tỉnh; sự cố gắng của vươn lên của cộng đồng doanh nghiệp và sự ủng hộ của nhân dân. Tuy nhiên, sản xuất kinh doanh vẫn gặp nhiều khó khăn do thời tiết diễn biến phức tạp, thất thường rét đậm, rét hại giai đoạn đầu vụ và việc khô hạn, thiếu nước ở một số nơi đã ảnh hưởng đến sinh trưởng phát triển của cây lúa, chăn nuôi vẫn ảnh hưởng của dịch bệnh; tình trạng dông lốc, mưa đá, mưa lớn kéo dài tại một số địa phương đã ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động sản xuất, kinh doanh và tiến độ thi công xây dựng các công trình; hạn hán kéo dài ảnh hưởng rất lớn đến ngành sản xuất điện... Để hoàn thành kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2023, trong thời gian tới, các cấp, các ngành, các địa phương cần tập trung vào một số vấn đề trọng tâm sau đây: 

- Tiếp tục thực hiện các chính sách tín dụng ưu đãi cho các đối tượng đúng quy định của Chính phủ và Ngân hàng Trung ương. Tiếp tục triển khai đồng bộ các giải pháp cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi vay, tháo gỡ khó khăn cho khách hàng bị ảnh hưởng bởi dịch Covid; đảm bảo cân đối để đáp ứng đầy đủ nhu cầu vốn phục vụ sản xuất kinh doanh. Kiểm soát chặt chẽ tín dụng đối với các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro.

- Tập trung rà soát đơn giản hóa các thủ tục hành chính trong quá trình giải quyết thủ tục đầu tư, giao đất, cho thuê đất; rà soát, điều chỉnh bổ sung danh mục các dự án kêu gọi, thu hút đầu tư cho phù hợp với thực tế với những cơ chế thông thoáng, tạo điều kiện tối đa nhất để thu hút các nhà đầu tư, đặc biệt là các tập đoàn lớn đầu tư vào địa bàn. 

- Tiếp tục thực hiện các kế hoạch đề án phát triển sản xuất phát triển nông, lâm nghiệp  chuyển đổi đất lúa kém hiệu quả sang cây trồng khác theo kế hoạch, đẩy mạnh thực hiện cơ cấu lại ngành nông nghiệp theo hướng phát triển nông, lâm nghiệp, thủy sản hàng hóa, tập trung vào các sản phẩm chủ lực, đặc sản theo chuỗi liên kết bảo đảm chất lượng, giá trị gia tăng cao gắn với xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021-2025, định hướng đến năm 2030. Thực hiện hiệu quả công tác phòng chống dịch hại trên cây trồng vật nuôi đặc biệt là Dịch tả lợn Châu Phi, dịch cúm gia cầm, thực hiện các biện pháp PCCCR, bố trí lực lượng thường trực tại các vùng rừng có nguy cơ cháy cao. 

- Tập trung thực hiện, khai thác hiệu quả các hoạt động sản xuất công nghiệp, nhất là các dự án thủy điện trên địa bàn (các dự án dự kiến hoàn thành trong quý IV/2023 đưa vào vận  hành), tập trung cho công tác giải phóng mặt bằng. Quản lý chặt chẽ tiến độ, chất lượng các công trình dự án đầu tư công, nhất là các dự án trọng điểm.

- Tăng cường quản lý thị trường giá cả, trong đó cần kiểm soát chặt giá cả các mặt hàng thiết yếu phục vụ sản xuất và đời sống. Chủ động ứng phó trước những biến động của thị trường. Tăng cường kiểm tra việc thực hiện các quy định về đăng ký, kê khai, niêm yết giá. Kiên quyết xử lý nghiêm các trường hợp đầu cơ, găm hàng, thao túng thị trường, tăng giá bất hợp lý, buôn lậu qua biên giới.

- Khuyến khích nhu cầu tiêu dùng trong nước, trong tỉnh, tăng khả năng cạnh tranh của hàng hóa trong nước, trong tỉnh đối với hàng nhập khẩu, góp phần duy trì tăng trưởng công nghiệp chế biến, chế tạo. Đẩy mạnh xúc tiến thương mại, tăng cường xuất khẩu thông qua việc chuẩn bị các nguồn hàng đảm bảo yêu cầu về chất lượng, mẫu mã, vệ sinh an toàn thực phẩm để xuất sang các thị trường đã ký kết Hiệp định thương mại tự do. Kiểm soát chặt chẽ nhập khẩu, nhất là nhập khẩu tiểu ngạch và các hoạt động tạm nhập, tái xuất hàng nông sản. Nâng cao hiệu quả công tác quản lý thị trường, chống buôn lậu, gian lận thương mại, hàng nhái, hàng giả, kém chất lượng để bảo vệ sản xuất trong nước nói chung, trong tỉnh nói riêng và quyền lợi của người tiêu dùng. 

- Thực hiện tốt các chính sách an sinh xã hội, bảo đảm đời sống dân cư. Tập trung quan tâm các xã, thôn bản khó khăn. Triển khai các hoạt động giám sát trong thực hiện chương trình giảm nghèo và thực hiện đầy đủ các chính sách hỗ trợ cho người nghèo.

- Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, phòng chống dịch bệnh, bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm. Chủ động phòng ngừa và xây dựng kế hoạch phòng chống và khắc phục hậu quả thiên tai nhằm ổn định sản xuất và đời sống.

Tác giả bài viết: Cục Thống kê tỉnh Điện Biên

Ghi rõ nguồn "Cục Thống kê tỉnh Điện Biên" hoặc "https://thongkedienbien.gov.vn" khi phát hành lại thông tin từ các nguồn này.

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây